Cuộc Khảo sát Cơ hội Việc làm và Tỷ lệ Thôi việc (JOLTS) sẽ được công bố vào thứ Ba bởi Cục Thống kê Lao động Hoa Kỳ (BLS). Ấn phẩm này sẽ cung cấp dữ liệu về sự thay đổi số lượng cơ hội việc làm trong tháng 12, cùng với số lượng sa thải và thôi việc.
Dữ liệu JOLTS được những người tham gia thị trường và các nhà hoạch định chính sách của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) xem xét kỹ lưỡng vì nó có thể cung cấp những thông tin chi tiết có giá trị về động lực cung-cầu trong thị trường lao động, một yếu tố then chốt ảnh hưởng đến tiền lương và lạm phát. Số lượng cơ hội việc làm đã giảm đều đặn kể từ khi đạt trên 12 triệu vào tháng 3 năm 2022, cho thấy điều kiện thị trường lao động đang dần hạ nhiệt. Vào tháng 9, số lượng việc làm giảm xuống còn 7,44 triệu, đánh dấu mức thấp nhất kể từ tháng 1 năm 2021, trước khi tăng lên 7,8 triệu và 8,09 triệu vào tháng 10 và tháng 11, tương ứng.
Các thị trường kỳ vọng số lượng cơ hội việc làm sẽ vào khoảng 8 triệu vào ngày làm việc cuối cùng của tháng 12. Sau cuộc họp chính sách tháng 1, Cục Dự trữ Liên bang (Fed) lưu ý rằng hoạt động kinh tế đã mở rộng với tốc độ vững chắc, với tỷ lệ thất nghiệp ổn định ở mức thấp và điều kiện thị trường lao động vẫn mạnh mẽ. Trong cuộc họp báo sau cuộc họp, Chủ tịch Fed Jerome Powell cho biết thị trường lao động dường như đang cân bằng rộng rãi.
Điều quan trọng cần lưu ý là trong khi dữ liệu JOLTS đề cập đến cuối tháng 12, báo cáo Việc làm chính thức, sẽ được công bố vào thứ Sáu, đo lường dữ liệu cho tháng 1.
Vào tháng 12, Bảng lương phi nông nghiệp (NFP) tăng 256.000, vượt xa kỳ vọng của thị trường về mức tăng 160.000. Bình luận về tình hình việc làm ở Mỹ, Thống đốc Fed Chicago Austan Goolsbee cho biết: "Chúng tôi sẽ phải xử lý xem liệu mức tăng bán lẻ có phải là một mùa lễ mạnh mẽ hay điều gì đó tổng quát hơn." Ông nói thêm rằng ông không coi thị trường việc làm là nguồn gốc của lạm phát.
Công cụ CME FedWatch hiện cho thấy các thị trường đang định giá xác suất dưới 15% cho việc cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản (bps) vào tháng 3. Mặc dù dữ liệu cơ hội việc làm khó có thể ảnh hưởng đến triển vọng lãi suất của Fed, nhưng một bất ngờ tiêu cực đáng kể, với mức đọc ở hoặc dưới 7 triệu, có thể gây áp lực lên đồng đô la Mỹ (USD) với phản ứng ngay lập tức. Mặt khác, định vị thị trường cho thấy USD không có nhiều dư địa tăng ngay cả khi dữ liệu tốt hơn dự báo.
"Trong tháng, số lượng tuyển dụng và tổng số lần tách biệt ít thay đổi ở mức 5,3 triệu và 5,1 triệu, tương ứng," BLS cho biết trong báo cáo JOLTS tháng 11. "Trong số các lần tách biệt, số lần thôi việc (3,1 triệu) giảm, nhưng số lần sa thải và sa thải (1,8 triệu) ít thay đổi."
Số lượng cơ hội việc làm sẽ được công bố vào thứ Ba lúc 15:00 GMT. Eren Sengezer, Nhà phân tích trưởng phiên châu Âu tại FXStreet, chia sẻ triển vọng kỹ thuật của mình cho EUR/USD:
"EUR/USD đã quay trở lại trong kênh hồi quy giảm giá từ cuối tháng 9 sau khi không ổn định trên giới hạn trên của nó. Ngoài ra, chỉ báo Sức mạnh Tương đối (RSI) trên biểu đồ hàng ngày đã giảm xuống dưới 40, phản ánh sự tích tụ của động lượng giảm giá."
Ở phía giảm, 1,0200 (điểm giữa của kênh giảm giá) là mức hỗ trợ ngay lập tức trước 1,0100 (mức tròn) và 1,0000 (mức tâm lý, giới hạn dưới của kênh tăng giá). Nhìn về phía bắc, mức kháng cự đầu tiên có thể được phát hiện ở mức 1,0400 (Đường trung bình động đơn giản (SMA) 50 ngày, giới hạn trên của kênh giảm giá) trước 1,0500 (mức tĩnh) và 1,0640 (SMA 100 ngày)."
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.