Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Philadelphia Anna Paulson cho biết bà đang tiếp cận cuộc họp chính sách tháng 12 "một cách thận trọng", đồng thời cho rằng ngân hàng trung ương phải cân bằng cẩn thận giữa việc giảm đà lao động và những rủi ro lạm phát còn tồn tại.
Các đợt cắt giảm lãi suất cho đến nay là phù hợp, nhưng mỗi lần đều nâng cao tiêu chuẩn cho lần cắt tiếp theo.
Với những rủi ro lạm phát tăng cao, rủi ro việc làm giảm, chính sách tiền tệ phải đi trên một ranh giới mỏng.
Về mặt biên, vẫn lo lắng hơn về thị trường lao động so với lạm phát.
Kỳ vọng sẽ học được nhiều điều giữa bây giờ và cuộc họp của Fed vào tháng 12.
Nền kinh tế Mỹ đang hoạt động ổn.
Khi suy nghĩ về chính sách tiền tệ trong một khoảng thời gian dài hơn, tập trung vào việc cân bằng giữa lạm phát và rủi ro thị trường lao động.
Sự phân hóa trong nền kinh tế có thể đã gia tăng, các hộ gia đình có thu nhập thấp và trung bình đang gặp khó khăn.
Báo cáo thị trường lao động tháng 9 'khuyến khích' về tổng thể.
Ảnh hưởng của thuế quan nhỏ hơn so với lo ngại, môi trường cầu tổng thể giúp giữ lạm phát ở mức thấp.
Tăng trưởng tổng thể phụ thuộc nhiều hơn vào những người có thu nhập cao nhất, triển vọng tăng trưởng đặc biệt nhạy cảm với định giá cổ phiếu.
Vào thời điểm viết bài, Chỉ số Đô la Mỹ (DXY) đang giao dịch quanh mức 100,15, giảm 0,06% trong ngày.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.