Đồng đô la Mỹ vẫn giao dịch trong một kênh giảm. Phản ứng tăng giá đối với các số liệu PPI mạnh hơn mong đợi được thấy vào thứ Năm đã bị giới hạn ở đỉnh của kênh, khoảng 98,35, và chỉ số này đã mất gần như toàn bộ mức tăng sau PPI vào thứ Sáu, quay trở lại dưới mức 98,00.
Khẩu vị rủi ro vừa phải, với hy vọng rằng cuộc gặp Trump-Putin sẽ diễn ra sau đó trong ngày hôm nay ở Alaska sẽ mang lại một số tiến triển hướng tới việc kết thúc cuộc chiến ở Ukraine, đang hỗ trợ đồng euro và gia tăng áp lực lên đồng đô la Mỹ.
Vào thứ Năm, giá bán buôn của Mỹ cho thấy mức tăng lớn nhất trong ba năm qua, xác nhận rằng các mức thuế cao hơn đang bắt đầu ảnh hưởng đến lạm phát. Các số liệu này đã làm giảm một số hy vọng về việc cắt giảm lãi suất ngay lập tức của Fed do các số liệu CPI nhẹ nhàng được thấy trước đó trong tuần, và đã đẩy đồng đô la Mỹ tăng giá trên toàn bộ thị trường.
Khi cơn bão từ cú sốc PPI lắng xuống, và các nhà đầu tư nhận ra rằng các thị trường tương lai vẫn đang định giá hơn 90% khả năng cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản vào tháng 9, áp lực giảm giá đã trở lại với đồng đô la Mỹ.
Trong lịch trình hôm nay, Doanh số bán lẻ của Mỹ sẽ cung cấp thêm thông tin về tác động của thuế đối với chi tiêu của người tiêu dùng, điều này, cùng với Kỳ vọng lạm phát tiêu dùng của Đại học Michigan, có khả năng định hình xu hướng cho đồng đô la Mỹ.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.