Cặp USD/CHF kéo dài chuỗi thua lỗ của mình trong ngày giao dịch thứ ba vào thứ Tư. Cặp đồng Franc Thụy Sĩ ghi nhận mức thấp nhất trong ba tháng mới là 0,7860 trong phiên giao dịch châu Âu khi đồng đô la Mỹ (USD) tiếp tục hoạt động kém hơn so với các đồng tiền khác mặc dù dữ liệu Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) quý 3 của Hoa Kỳ bất ngờ khả quan.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đô la New Zealand.
| USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| USD | -0.63% | -0.93% | -1.12% | -0.88% | -1.51% | -1.75% | -0.99% | |
| EUR | 0.63% | -0.30% | -0.51% | -0.26% | -0.89% | -1.12% | -0.36% | |
| GBP | 0.93% | 0.30% | -0.13% | 0.04% | -0.60% | -0.83% | -0.06% | |
| JPY | 1.12% | 0.51% | 0.13% | 0.28% | -0.34% | -0.58% | 0.05% | |
| CAD | 0.88% | 0.26% | -0.04% | -0.28% | -0.55% | -0.87% | -0.10% | |
| AUD | 1.51% | 0.89% | 0.60% | 0.34% | 0.55% | 0.06% | 0.54% | |
| NZD | 1.75% | 1.12% | 0.83% | 0.58% | 0.87% | -0.06% | 0.78% | |
| CHF | 0.99% | 0.36% | 0.06% | -0.05% | 0.10% | -0.54% | -0.78% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Tại thời điểm viết bài, Chỉ số đô la Mỹ (DXY), theo dõi giá trị của đồng bạc xanh so với sáu đồng tiền chính, giao dịch gần mức thấp nhất trong ba tháng là 97,75 được ghi nhận trong ngày.
Dữ liệu cho thấy vào thứ Ba rằng nền kinh tế Mỹ tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ hàng năm là 4,3%. Các nhà kinh tế dự đoán tăng trưởng GDP sẽ thấp hơn ở mức 3,3% so với 3,8% trong quý hai năm nay.
Đồng đô la Mỹ vẫn chịu áp lực do kỳ vọng vững chắc rằng Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ thực hiện nhiều hơn một lần cắt giảm lãi suất, như đã được các quan chức trong chính sách tiền tệ công bố vào tuần trước.
Trong khi đó, đồng Franc Thụy Sĩ (CHF) giao dịch cao hơn so với các đồng tiền chính trước đêm Giáng sinh.

USD/CHF giao dịch thấp hơn gần 0,7860. Nó kéo dài mức trượt giá dưới đường trung bình động hàm mũ (EMA) 20 ngày đang giảm ở mức 0,7966, với mức trung bình này đang giảm và hạn chế các đợt phục hồi. Sự liên kết giảm giá tiếp tục gây áp lực lên cặp này.
Chỉ báo sức mạnh tương đối (RSI) 14 ngày ở mức 31 (gần quá bán) xác nhận động lượng yếu.
Đà giảm giá sẽ tiếp tục trong khi giá vẫn dưới đường EMA 20 ngày, và một mức đóng cửa hàng ngày dưới mức thấp ngày 17 tháng 9 là 0,7830 sẽ gia tăng áp lực giảm.
(Phân tích kỹ thuật của câu chuyện này được viết với sự trợ giúp của một công cụ AI.)
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.