Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Sáu, ngày 3 tháng 10:
Sau hành động giảm giá được thấy trong nửa đầu tuần, đồng đô la Mỹ (USD) đã giữ vững được sức mạnh trước các đối thủ vào thứ Năm. Khi chính phủ liên bang Mỹ bước vào ngày thứ ba của cuộc đóng cửa, chỉ số USD giữ ổn định gần 98,00. Dữ liệu Bảng lương phi nông nghiệp tháng Chín sẽ bị trì hoãn cho đến khi việc cấp vốn của chính phủ được khôi phục. Do đó, những người tham gia thị trường sẽ chú ý đến báo cáo Chỉ số người quản trị mua hàng (PMI) dịch vụ của Viện Quản lý Cung ứng (ISM) cho tháng Chín.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đồng Yên Nhật.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -0.23% | -0.40% | -1.31% | 0.18% | -0.85% | -0.68% | -0.05% | |
EUR | 0.23% | -0.17% | -1.26% | 0.41% | -0.62% | -0.46% | 0.17% | |
GBP | 0.40% | 0.17% | -0.99% | 0.58% | -0.51% | -0.29% | 0.34% | |
JPY | 1.31% | 1.26% | 0.99% | 1.56% | 0.53% | 0.53% | 1.34% | |
CAD | -0.18% | -0.41% | -0.58% | -1.56% | -0.98% | -0.86% | -0.24% | |
AUD | 0.85% | 0.62% | 0.51% | -0.53% | 0.98% | 0.16% | 0.79% | |
NZD | 0.68% | 0.46% | 0.29% | -0.53% | 0.86% | -0.16% | 0.78% | |
CHF | 0.05% | -0.17% | -0.34% | -1.34% | 0.24% | -0.79% | -0.78% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Thượng viện đã không bỏ phiếu về luật cấp vốn vào thứ Năm để tôn trọng ngày lễ Yom Kippur. Trong khi đó, Tổng thống Mỹ Donald Trump cho biết ông sẽ gặp Russ Vought, người đứng đầu Văn phòng Quản lý và Ngân sách, để xem những chương trình liên bang nào có thể bị cắt giảm. Thêm vào đó, chính quyền Trump đã thông báo vào cuối ngày thứ Tư rằng họ đã đóng băng 26 tỷ đô la cho các bang có xu hướng ủng hộ Đảng Dân chủ. Đầu ngày thứ Sáu, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ tăng từ 0,2% đến 0,3%, trong khi lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm duy trì mức tăng nhỏ hàng ngày ở khoảng 4,1%.
Trong phiên giao dịch châu Á, dữ liệu từ Nhật Bản cho thấy Tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên 2,6% trong tháng Tám từ mức 2,3% trong tháng Bảy. Số liệu này cao hơn kỳ vọng của thị trường là 2,4%. Trong khi đó, Thống đốc Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ) Kazuo Ueda cho biết trong phiên giao dịch châu Á rằng rủi ro BoJ bị tụt lại phía sau về lạm phát không lớn nhưng cần được chú ý. Cuộc bầu cử lãnh đạo Đảng Dân chủ Tự do (LDP) năm 2025 sẽ diễn ra vào thứ Bảy để bầu ra lãnh đạo tiếp theo của LDP, người có khả năng trở thành Thủ tướng mới, thay thế Shigeru Ishiba. USD/JPY ghi nhận mức tăng nhỏ và chấm dứt chuỗi giảm bốn ngày vào thứ Năm. Cặp tiền này nhích lên trong buổi sáng châu Âu và giao dịch gần 147,50.
Vàng dao động trong một phạm vi rộng vào thứ Tư trước khi đóng cửa ngày với mức giảm nhẹ. XAU/USD gặp khó khăn trong việc tìm hướng đi vào đầu ngày thứ Sáu và giao dịch ở mức khoảng 3.860$.
EUR/USD ghi nhận mức lỗ vừa phải vào thứ Năm nhưng đã ổn định trên mức 1,1700 vào đầu ngày thứ Sáu. Eurostat sẽ công bố dữ liệu Chỉ số giá sản xuất (PPI) cho tháng Tám vào cuối phiên giao dịch và Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) Christine Lagarde sẽ phát biểu tại hội nghị chia tay cho Chủ tịch DNB Klaas Knot ở Amsterdam, Hà Lan.
GBP/USD giảm khoảng 0,3% vào thứ Năm, chịu áp lực từ sự phục hồi của USD trong phiên giao dịch Mỹ. Cặp tiền này giữ vững vị thế trong buổi sáng châu Âu vào thứ Sáu và giao dịch gần 1,3450.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.