EUR/USD giảm bớt lợi nhuận trong một phiên giao dịch chậm lắng ở châu Á vào thứ Tư, nhưng vẫn giao dịch ở mức 1,1855 tại thời điểm viết bài, không xa mức 1,1879 – mức cao nhất trong bốn năm – đạt được vào thứ Ba. Cặp tiền này đã tăng gần 2% từ mức thấp vào thứ Sáu tuần trước, khi các nhà đầu tư đặt cược cho một đợt cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và một hoặc hai đợt cắt giảm nữa trước khi kết thúc năm.
Dữ liệu lao động yếu của Mỹ trong những tuần gần đây, kết hợp với áp lực lạm phát vừa phải, đã thúc đẩy các cược về việc nới lỏng tiền tệ. Bóng đã nằm trong tay của Fed, và một đợt cắt giảm lãi suất gần như đã được quyết định, nhưng sự ôn hòa trong hướng dẫn tương lai của ngân hàng có thể bị đánh giá quá cao. Chủ tịch Fed Jerome Powell có khả năng từ chối cam kết vào một lộ trình lãi suất nhất định, điều này có thể làm chao đảo đà tăng rủi ro. Quyết định lãi suất của Fed sẽ được công bố vào lúc 18:00 GMT, trong khi cuộc họp báo của Powell sẽ bắt đầu vào lúc 18:30 GMT.
Dữ liệu của Mỹ được công bố vào thứ Ba cho thấy Doanh số bán lẻ tăng nhiều hơn mong đợi trong tháng Tám, mặc dù thị trường lao động lỏng lẻo, triển vọng kinh tế xấu đi và giá cả tăng do thuế quan thương mại cao hơn đang đè nặng lên chi tiêu của người tiêu dùng.
Tại châu Âu, điểm nhấn của ngày sẽ là Chỉ số Giá tiêu dùng Hài hòa (HICP) dự kiến vào lúc 09:00 GMT. Báo cáo dự kiến sẽ xác nhận rằng lạm phát đã tăng nhẹ lên 0,2% so với tháng và 2,1% so với cùng kỳ năm ngoái trong tháng Tám. Lạm phát cơ bản được dự đoán sẽ tăng ở mức 2,3% hàng năm, không thay đổi so với tháng trước. Với việc Cục Dự trữ Liên bang thu hút sự chú ý của thị trường, những con số này khó có khả năng có tác động đáng kể đến đồng Euro.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đồng Euro (EUR) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê hôm nay. Đồng Euro mạnh nhất so với Đô la New Zealand.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | 0.12% | 0.07% | 0.04% | 0.10% | 0.07% | 0.13% | 0.20% | |
EUR | -0.12% | -0.07% | -0.09% | -0.01% | 0.07% | 0.13% | 0.07% | |
GBP | -0.07% | 0.07% | 0.00% | 0.06% | -0.02% | 0.06% | 0.06% | |
JPY | -0.04% | 0.09% | 0.00% | 0.05% | 0.12% | 0.09% | 0.01% | |
CAD | -0.10% | 0.00% | -0.06% | -0.05% | 0.04% | 0.09% | 0.07% | |
AUD | -0.07% | -0.07% | 0.02% | -0.12% | -0.04% | 0.08% | 0.00% | |
NZD | -0.13% | -0.13% | -0.06% | -0.09% | -0.09% | -0.08% | -0.04% | |
CHF | -0.20% | -0.07% | -0.06% | -0.01% | -0.07% | -0.00% | 0.04% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đồng Euro từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đô la Mỹ, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho EUR (đồng tiền cơ sở)/USD (đồng tiền định giá).
EUR/USD đã tăng liên tục trong bốn ngày qua, vượt qua đỉnh của kênh tăng dần và đẩy Chỉ số Sức mạnh Tương đối (RSI) trên biểu đồ 4 giờ lên mức quá mua mạnh mẽ.
Cặp tiền này có khả năng sẽ không thay đổi nhiều trước quyết định của Fed, nhưng các điều kiện đã được thiết lập cho một số điều chỉnh, đặc biệt nếu Powell của Fed làm giảm hy vọng của các nhà đầu tư về một chu kỳ nới lỏng tiền tệ mạnh mẽ.
Các nỗ lực giảm giá có khả năng tìm thấy hỗ trợ tại 1,1830, nơi mức cao ngày 1 tháng 7 gặp đường xu hướng đảo ngược của kênh tăng dần. Thấp hơn, mức thấp ngày 9 tháng 9 tại 1,1790 và mức hỗ trợ trong ngày là 1,1755 có khả năng là các mục tiêu tiếp theo.
Về phía tăng, mức cao của thứ Ba là 1,1878, và mức mở rộng Fibonacci 161,8% của đợt tăng từ 27 tháng 8 đến 1 tháng 9 là 1,1885. Trên mức này, mức tâm lý 1,2000 xuất hiện như một mục tiêu khả thi.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.
Tháng Chín