Lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ đang tăng trên toàn bộ đường cong lãi suất khi những người tham gia thị trường tiêu hóa dữ liệu lạm phát của Mỹ vào thứ Ba về phía người tiêu dùng, với các nhà giao dịch đang chờ công bố dữ liệu Chỉ số giá sản xuất (PPI) tháng 4 và Doanh số bán lẻ. Tại thời điểm viết bài, lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm đã tăng năm điểm rưỡi lên 4,525%.
Lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 2 năm, thường di chuyển song song với kỳ vọng lãi suất, tăng ba điểm cơ bản lên 4,049%
Lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ vẫn nằm trong mức cao nhất của tuần khi tâm lý thị trường chuyển biến tích cực trước tin tức rằng Mỹ và Trung Quốc đã đồng ý tạm dừng thuế quan trong 90 ngày và giảm thuế suất hơn 115%. Nhà Trắng đã quyết định áp đặt thuế quan 30% đối với hàng hóa Trung Quốc và 10% đối với hàng hóa Mỹ.
Phó Chủ tịch Fed Philip Jefferson cho biết lập trường chính sách tiền tệ hiện tại đang ở vị trí tốt để phản ứng với các diễn biến kinh tế, lưu ý rằng dữ liệu lạm phát nhất quán với tiến bộ hơn nữa hướng tới mục tiêu 2%, nhưng con đường tương lai vẫn không chắc chắn do tác động của thuế quan.
Jefferson bổ sung rằng thuế quan có thể kích thích lạm phát, nhưng không chắc liệu chúng có tạm thời hay kéo dài.
Các đảng viên Cộng hòa đã tiến hành các yếu tố trong gói ngân sách rộng lớn của Trump vào thứ Tư, phê duyệt các cắt giảm thuế sẽ làm tăng thêm hàng nghìn tỷ đô la Mỹ vào nợ công của Mỹ.
Các nhà đầu tư đang chú ý đến việc công bố dữ liệu lạm phát về phía nhà sản xuất, cùng với Doanh số bán lẻ và dữ liệu thị trường lao động.
Lãi suất thực kỳ hạn 10 năm của Mỹ, là sự chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa kỳ hạn 10 năm của Mỹ trừ đi kỳ vọng lạm phát cho cùng kỳ, tăng ba điểm cơ bản lên 2,21%.
Các nhà giao dịch đã loại bỏ một đợt cắt giảm lãi suất của Fed, khi những người tham gia thị trường chỉ kỳ vọng 49,5 điểm cơ bản (bps) nới lỏng, trái ngược với 76 điểm cơ bản đã lên lịch vào ngày 7 tháng 5.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.