Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Sáu, ngày 18 tháng 7:
Hoạt động trên các thị trường tài chính vẫn tương đối trầm lắng vào đầu ngày thứ Sáu và chỉ số Đô la Mỹ (USD) củng cố mức tăng hàng tuần của nó quanh mức 98,50. Trong nửa sau của ngày, dữ liệu về Lượng nhà khởi công xây dựng và Giấy phép xây dựng cho tháng 6 sẽ được đưa vào lịch kinh tế của Mỹ. Sau đó trong phiên giao dịch Mỹ, Đại học Michigan sẽ công bố Chỉ số tâm lý người tiêu dùng cho tháng 7.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ mạnh nhất so với Đồng Yên Nhật.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | 0.37% | 0.45% | 1.06% | 0.27% | 0.89% | 0.76% | 0.64% | |
EUR | -0.37% | 0.06% | 0.71% | -0.11% | 0.51% | 0.36% | 0.26% | |
GBP | -0.45% | -0.06% | 0.58% | -0.17% | 0.45% | 0.33% | 0.33% | |
JPY | -1.06% | -0.71% | -0.58% | -0.67% | -0.17% | -0.24% | -0.38% | |
CAD | -0.27% | 0.11% | 0.17% | 0.67% | 0.61% | 0.50% | 0.37% | |
AUD | -0.89% | -0.51% | -0.45% | 0.17% | -0.61% | -0.15% | -0.25% | |
NZD | -0.76% | -0.36% | -0.33% | 0.24% | -0.50% | 0.15% | -0.13% | |
CHF | -0.64% | -0.26% | -0.33% | 0.38% | -0.37% | 0.25% | 0.13% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Đô la Mỹ đã tăng cường sức mạnh so với các đối thủ của nó nhờ vào các dữ liệu kinh tế vĩ mô tích cực được công bố vào thứ Năm. Doanh số bán lẻ ở Mỹ đã tăng 0,6% so với tháng trước trong tháng 6, vượt xa kỳ vọng của thị trường về mức tăng 0,1% với một khoảng cách lớn, và số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu hàng tuần giảm xuống 221.000 từ 228.000 trong tuần trước. Chỉ số USD đã tăng hơn 0,3% trong ngày và các chỉ số S&P 500 và Nasdaq Composite đều đóng cửa ở mức cao kỷ lục mới, tăng lần lượt 0,55% và 0,75%.
Trong khi đó, Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang (Fed) Christopher Waller cho biết vào cuối ngày thứ Năm rằng ông vẫn tin rằng Fed nên cắt giảm mục tiêu lãi suất của mình trong cuộc họp tháng 7, với lý do các rủi ro kinh tế gia tăng và khả năng cao rằng lạm phát do thuế quan gây ra sẽ không dẫn đến một sự gia tăng bền vững trong áp lực giá cả.
Sau khi chạm mức thấp nhất trong ba tuần dưới 1,1560 vào thứ Năm, EUR/USD được hưởng lợi từ sự yếu kém nhẹ của USD vào đầu ngày thứ Sáu và giao dịch trong vùng tích cực trên 1,1600. Lịch kinh tế châu Âu sẽ có dữ liệu về Sản lượng xây dựng cho tháng 5.
GBP/USD giữ vững mức tăng hàng ngày khiêm tốn trên 1,3400 sau khi đóng cửa gần như không thay đổi vào thứ Năm.
AUD/USD phục hồi sau khi ghi nhận mức lỗ lớn vào thứ Năm và giao dịch quanh mức 0,6500 trong phiên châu Âu vào thứ Sáu.
Sau khi giảm mạnh vào thứ Tư, USD/JPY đã tăng khoảng 0,5% vào thứ Năm. Cặp này giữ vững vị trí vào đầu ngày thứ Sáu và tăng nhẹ về phía 149,00.
Vàng đã giảm xuống dưới 3.310$ trong phiên giao dịch Mỹ sớm vào thứ Năm nhưng đã xóa bỏ một phần lớn mức lỗ hàng ngày để đóng cửa gần 3.340$. XAU/USD gặp khó khăn trong việc tìm hướng đi vào đầu ngày thứ Sáu và dao động trong một kênh hẹp gần 3.345$.
Trong thế giới thuật ngữ tài chính, hai thuật ngữ được sử dụng rộng rãi là “ưa rủi ro” và “ngại rủi ro” dùng để chỉ mức độ rủi ro mà các nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận trong giai đoạn được tham chiếu. Trong thị trường “ưa rủi ro”, các nhà đầu tư lạc quan về tương lai và sẵn sàng mua các tài sản rủi ro hơn. Trong thị trường “ngại rủi ro”, các nhà đầu tư bắt đầu “giao dịch an toàn” vì họ lo lắng về tương lai, và do đó mua các tài sản ít rủi ro hơn nhưng chắc chắn mang lại lợi nhuận hơn, ngay cả khi lợi nhuận tương đối khiêm tốn.
Thông thường, trong giai đoạn “ưa rủi ro”, thị trường chứng khoán sẽ tăng, hầu hết các mặt hàng – ngoại trừ Vàng – cũng sẽ tăng giá trị, vì chúng được hưởng lợi từ triển vọng tăng trưởng tích cực. Tiền tệ của các quốc gia là nước xuất khẩu hàng hóa lớn sẽ tăng giá do nhu cầu tăng và Tiền điện tử tăng. Trong thị trường “ngại rủi ro”, Trái phiếu tăng giá – đặc biệt là Trái phiếu chính phủ lớn – Vàng tỏa sáng và các loại tiền tệ trú ẩn an toàn như Yên Nhật, Franc Thụy Sĩ và Đô la Mỹ đều được hưởng lợi.
Đô la Úc (AUD), Đô la Canada (CAD), Đô la New Zealand (NZD) và các đồng tiền FX nhỏ như Rúp (RUB) và Rand Nam Phi (ZAR), tất cả đều có xu hướng tăng trên các thị trường “rủi ro”. Điều này là do nền kinh tế của các loại tiền tệ này phụ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu hàng hóa để tăng trưởng và giá hàng hóa có xu hướng tăng trong các giai đoạn rủi ro. Điều này là do các nhà đầu tư dự đoán nhu cầu về nguyên liệu thô sẽ tăng cao hơn trong tương lai do hoạt động kinh tế gia tăng.
Các loại tiền tệ chính có xu hướng tăng trong thời kỳ “rủi ro” là Đô la Mỹ (USD), Yên Nhật (JPY) và Franc Thụy Sĩ (CHF). Đô la Mỹ, vì đây là đồng tiền dự trữ của thế giới và vì trong thời kỳ khủng hoảng, các nhà đầu tư mua nợ chính phủ Hoa Kỳ, được coi là an toàn vì nền kinh tế lớn nhất thế giới khó có khả năng vỡ nợ. Đồng yên, do nhu cầu trái phiếu chính phủ Nhật Bản tăng, vì một tỷ lệ lớn được nắm giữ bởi các nhà đầu tư trong nước, những người không có khả năng bán tháo chúng - ngay cả trong khủng hoảng. Franc Thụy Sĩ, vì luật ngân hàng nghiêm ngặt của Thụy Sĩ cung cấp cho các nhà đầu tư sự bảo vệ vốn được tăng cường.