Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Tư, ngày 24 tháng 12:
Diễn biến trên thị trường tài chính trở nên trầm lắng vào thứ Tư khi các nhà tham gia chuẩn bị cho kỳ nghỉ Giáng sinh. Thị trường chứng khoán và trái phiếu ở Mỹ sẽ mở cửa vào thời gian thông thường nhưng sẽ đóng cửa sớm vào đêm Giáng sinh, và lịch kinh tế sẽ không có bất kỳ dữ liệu quan trọng nào được công bố cho đến tuần tới.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đô la New Zealand.
| USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| USD | -0.70% | -1.01% | -1.26% | -0.85% | -1.57% | -1.77% | -0.98% | |
| EUR | 0.70% | -0.30% | -0.59% | -0.15% | -0.87% | -1.07% | -0.28% | |
| GBP | 1.01% | 0.30% | -0.19% | 0.15% | -0.58% | -0.77% | 0.02% | |
| JPY | 1.26% | 0.59% | 0.19% | 0.43% | -0.26% | -0.45% | 0.20% | |
| CAD | 0.85% | 0.15% | -0.15% | -0.43% | -0.65% | -0.92% | -0.13% | |
| AUD | 1.57% | 0.87% | 0.58% | 0.26% | 0.65% | 0.10% | 0.60% | |
| NZD | 1.77% | 1.07% | 0.77% | 0.45% | 0.92% | -0.10% | 0.80% | |
| CHF | 0.98% | 0.28% | -0.02% | -0.20% | 0.13% | -0.60% | -0.80% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Cục Phân tích Kinh tế Mỹ (BEA) báo cáo vào thứ Ba rằng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Mỹ đã tăng trưởng với tốc độ hàng năm là 4,3% trong quý ba. Số liệu này theo sau mức tăng 3,8% được ghi nhận trong quý hai và tốt hơn nhiều so với kỳ vọng của thị trường là 3,3%. Các dữ liệu khác từ Mỹ cho thấy Đơn đặt hàng Hàng hóa lâu bền đã giảm 2,2% theo tháng trong tháng Mười, trong khi Sản xuất công nghiệp tăng 0,2% trong tháng Mười Một. Mặc dù Chỉ số Đô la Mỹ (USD) đã phục hồi từ mức thấp trong ngày với phản ứng ngay lập tức đối với dữ liệu GDP tích cực, nhưng nó đã không thể kéo dài đà phục hồi sau đó trong phiên giao dịch Mỹ. Chỉ số USD giảm khoảng 1% kể từ đầu tuần và vẫn yên tĩnh dưới 98,00 trong buổi sáng châu Âu.
Trong khi đó, Tổng thống Mỹ Donald Trump cho biết trong một bài đăng trên mạng xã hội vào thứ Ba rằng bất kỳ ai không đồng ý với ông sẽ không bao giờ là chủ tịch của Cục Dự trữ Liên bang, đồng thời cho biết ông muốn chủ tịch mới hạ lãi suất nếu thị trường hoạt động tốt. Hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giao dịch giảm nhẹ vào đầu thứ Tư sau khi các chỉ số chính của Phố Wall ghi nhận mức tăng nhỏ vào thứ Ba.
Vàng đã kéo dài đà tăng hàng tuần trong giờ giao dịch châu Á và đạt mức cao kỷ lục mới trên 4.520$ trước khi rút lui xuống dưới 4.500$ vào buổi sáng châu Âu. Giá vàng đã tăng 3,5% trong tuần này và vẫn trên đà kết thúc tháng thứ năm liên tiếp trong vùng tích cực.
EUR/USD vẫn trong giai đoạn củng cố trong phiên giao dịch châu Âu sớm sau khi tăng lên trên 1,1800 và thiết lập mức cao nhất trong ba tháng.
GBP/USD đã tăng 1% trong tuần này sau khi ghi nhận mức tăng mạnh vào thứ Hai và thứ Ba. Cặp tiền này giữ vững trên 1,3500 để bắt đầu phiên giao dịch châu Âu.
USD/JPY vẫn chịu áp lực giảm giá trong ngày thứ ba liên tiếp vào thứ Tư và giảm xuống mức 155,50.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.