Đồng đô la New Zealand tiếp tục lơ lửng dưới khu vực kháng cự 0,5800 vào thứ Tư, với phe gấu bị kiềm chế trên khu vực 0,5750-0,5760 trong thời điểm hiện tại. Một đồng đô la Mỹ có phần yếu hơn trước khi Cục Dự trữ Liên bang (Fed) hỗ trợ cho sự củng cố của Kiwi gần mức đỉnh trong sáu tuần.
Đồng bạc xanh đang thoái lui so với hầu hết các đồng tiền khác, bị áp lực bởi sự đảo chiều nhẹ trên lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ, khi các nhà đầu tư điều chỉnh vị thế của họ trước quyết định của Fed.
Ngân hàng trung ương Mỹ được kỳ vọng sẽ cắt giảm lãi suất chuẩn thêm 25 điểm cơ bản lần thứ hai liên tiếp trong năm nay, giữ lãi suất trong khoảng 3,50-3,75 trong một Ủy ban Chính sách Tiền tệ bị chia rẽ sâu sắc.
Sự thu hút chính của sự kiện này, do đó, sẽ là cuộc họp báo của Jerome Powell, nơi mà chủ tịch ngân hàng trung ương được kỳ vọng sẽ đưa ra một quan điểm diều hâu và có thể cung cấp một số hỗ trợ cho đồng đô la Mỹ. Các số liệu việc làm tích cực được thấy vào thứ Ba và các số liệu lạm phát cứng đầu của tuần trước thêm lý do để nghĩ theo hướng đó.
Hơn nữa, các nhà đầu tư cũng sẽ chú ý đến biểu đồ dấu chấm, sẽ được so sánh với sự đồng thuận của thị trường về hai đến ba lần cắt giảm lãi suất nữa vào năm 2026.
Đồng đô la New Zealand đã thoái lui trong phiên giao dịch châu Á sớm khi dữ liệu lạm phát từ Trung Quốc không làm vui lòng các nhà đầu tư. Giá tiêu dùng của Trung Quốc đã tăng lên mức 0,7% so với cùng kỳ năm trước, mức cao nhất trong gần hai năm, nhưng lạm phát hàng tháng lại giảm, và áp lực giảm phát tại cổng nhà máy gia tăng, làm dấy lên lo ngại về nhu cầu nội địa yếu.
lạc quan
Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của New Zealand, và các số liệu này đã bù đắp tác động tích cực của dữ liệu cán cân thương mại lạc quan và sự gia tăng mạnh mẽ trong xuất khẩu mà nền kinh tế hàng đầu châu Á đã thể hiện vào đầu tuần này.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.