Cặp USD/CHF giao dịch trong một khoảng hẹp quanh 0,7980 trong phiên giao dịch châu Á muộn vào thứ Sáu. Đồng Franc Thụy Sĩ củng cố khi các nhà tham gia thị trường tài chính gặp khó khăn trong việc đánh giá triển vọng kinh tế của Hoa Kỳ (Mỹ), với việc ngừng các công bố kinh tế quan trọng do sự đóng cửa một phần của chính phủ.
Trong thời gian này, chỉ số đô la Mỹ (DXY), theo dõi giá trị của đồng bạc xanh so với sáu đồng tiền chính, dao động trong khoảng giao dịch của thứ Năm quanh 97,90.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê hôm nay. Đô la Mỹ mạnh nhất so với Đồng Yên Nhật.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -0.00% | -0.02% | 0.27% | -0.01% | 0.04% | -0.01% | 0.01% | |
EUR | 0.00% | 0.05% | 0.26% | 0.01% | 0.06% | -0.01% | 0.02% | |
GBP | 0.02% | -0.05% | 0.28% | -0.06% | 0.01% | -0.06% | -0.03% | |
JPY | -0.27% | -0.26% | -0.28% | -0.28% | -0.23% | -0.29% | -0.28% | |
CAD | 0.01% | -0.01% | 0.06% | 0.28% | 0.08% | 0.00% | 0.03% | |
AUD | -0.04% | -0.06% | -0.01% | 0.23% | -0.08% | -0.07% | -0.06% | |
NZD | 0.01% | 0.00% | 0.06% | 0.29% | -0.00% | 0.07% | 0.02% | |
CHF | -0.01% | -0.02% | 0.03% | 0.28% | -0.03% | 0.06% | -0.02% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Vào nửa đêm thứ Ba, chính phủ Mỹ buộc phải công bố một đợt đóng cửa một phần sau khi các Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa không thuyết phục được các Đảng viên Dân chủ ủng hộ dự luật tài trợ ngắn hạn.
Các công bố kinh tế quan trọng, chẳng hạn như Bảng lương phi nông nghiệp (NFP) cho tháng Chín và số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu cho tuần kết thúc vào ngày 27 tháng Chín vẫn chưa được các cơ quan tương ứng công bố, trong khi các nhà đầu tư đang chờ đợi công bố của chúng để có những tín hiệu mới về tình trạng hiện tại của thị trường lao động Mỹ.
Trong khi đó, dữ liệu Thay đổi Việc làm ADP của Mỹ cho tháng Chín đã báo hiệu dấu hiệu xấu đi của thị trường lao động. Vào thứ Tư, báo cáo Việc làm ADP của Mỹ cho thấy lực lượng lao động khu vực tư nhân đã giảm 32 nghìn nhân viên trong tháng Chín. Các nhà kinh tế đã dự đoán rằng có thêm 50 nghìn công nhân mới trong giai đoạn đó. Thêm vào đó, báo cáo cho thấy có 3 nghìn nhân viên bị sa thải trong tháng Tám so với việc bổ sung mới 54 nghìn công nhân.
Tại khu vực Thụy Sĩ, áp lực lạm phát tiếp tục duy trì ở mức thấp trong tháng Chín giữa bối cảnh tăng trưởng kinh tế chậm lại. Dữ liệu Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cho thấy vào thứ Năm rằng áp lực giá đã giảm 0,2% so với tháng trước, nhanh hơn so với mức 0,1% trong tháng Tám. CPI theo năm đã tăng đều đặn 0,2%, chậm hơn so với ước tính là 0,3%.
Tuần trước, Chủ tịch Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ (SNB) Martin Schlegel đã bày tỏ sự tự tin sau thông báo lãi suất rằng áp lực giá có thể "tăng tốc" trong các quý tới.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.