Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Sáu, ngày 15 tháng 8:
Đồng đô la Mỹ (USD) gặp khó khăn trong việc giữ vững vị thế sau khi ghi nhận mức tăng so với các đối thủ chính vào thứ Năm. Lịch kinh tế của Mỹ sẽ công bố dữ liệu Doanh số bán lẻ và Sản xuất công nghiệp cho tháng 7. Sau đó trong phiên, Đại học Michigan sẽ công bố Khảo sát tâm lý người tiêu dùng sơ bộ cho tháng 8, trong đó sẽ có chỉ số Niềm tin tiêu dùng và số liệu Kỳ vọng lạm phát tiêu dùng trong 1 năm.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Bảng Anh.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -0.25% | -0.77% | -0.32% | 0.30% | 0.22% | 0.57% | -0.32% | |
EUR | 0.25% | -0.52% | -0.05% | 0.56% | 0.48% | 0.79% | -0.05% | |
GBP | 0.77% | 0.52% | 0.42% | 1.09% | 1.00% | 1.32% | 0.47% | |
JPY | 0.32% | 0.05% | -0.42% | 0.67% | 0.59% | 0.98% | 0.16% | |
CAD | -0.30% | -0.56% | -1.09% | -0.67% | -0.07% | 0.22% | -0.63% | |
AUD | -0.22% | -0.48% | -1.00% | -0.59% | 0.07% | 0.31% | -0.52% | |
NZD | -0.57% | -0.79% | -1.32% | -0.98% | -0.22% | -0.31% | -0.83% | |
CHF | 0.32% | 0.05% | -0.47% | -0.16% | 0.63% | 0.52% | 0.83% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Trước cuối tuần, các nhà đầu tư cũng sẽ chú ý đến các tiêu đề từ cuộc họp được mong đợi giữa Tổng thống Mỹ Donald Trump và Tổng thống Nga Vladimir Putin tại Alaska.
Đồng USD đã tăng cường sức mạnh vào thứ Năm sau khi Cục Thống kê Lao động (BLS) báo cáo rằng lạm phát sản xuất hàng năm, được đo bằng sự thay đổi của Chỉ số giá sản xuất (PPI), đã tăng lên 3,3% trong tháng 7 từ mức 2,4% trong tháng 6. Trong giai đoạn này, PPI lõi đã tăng 3,7% theo năm, tăng mạnh so với mức tăng 2,6% được ghi nhận trong tháng 6.
Trong phiên giao dịch châu Á vào thứ Sáu, dữ liệu từ Trung Quốc cho thấy Doanh số bán lẻ tăng 3,7% theo năm trong tháng 7. Số liệu này không đạt kỳ vọng của thị trường là 4,6%. Thêm vào đó, Sản xuất công nghiệp đã mở rộng 5,7%, sau mức tăng 6,8% được báo cáo trong tháng trước. Sau khi mất gần 0,8% vào thứ Năm, AUD/USD đã phục hồi vào đầu thứ Sáu và giao dịch trong vùng tích cực, cao hơn một chút so với 0,6500.
USD/JPY vẫn chịu áp lực giảm giá và giao dịch gần 147,00 sau khi đóng cửa tăng nhẹ vào thứ Năm. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Nhật Bản đã tăng trưởng với tốc độ hàng năm là 1% trong quý thứ hai. Số liệu này theo sau mức tăng 0,6% được ghi nhận trong quý trước và tốt hơn so với kỳ vọng của thị trường là 0,4%.
EUR/USD vẫn ở trong vùng tích cực trên 1,1650 sau khi đóng cửa trong sắc đỏ vào thứ Năm. Lịch kinh tế châu Âu sẽ không cung cấp bất kỳ dữ liệu nào có tác động lớn vào thứ Sáu.
Sau đợt tăng mạnh trong nửa đầu tuần, GBP/USD đã mất lực kéo và giảm hơn 0,3% trong ngày vào thứ Năm. Cặp tiền này đã thoát khỏi áp lực giảm giá trong phiên giao dịch châu Âu vào thứ Sáu và giao dịch cao hơn một chút so với 1,3550.
Vàng đã đảo chiều và mất hơn 0,5% vào thứ Năm khi lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ tăng cao hơn sau dữ liệu lạm phát sản xuất nóng. XAU/USD giữ ổn định trong buổi sáng châu Âu vào thứ Sáu và giao dịch dưới 3.350$.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.