Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Năm, ngày 31 tháng 7:
Đồng Đô la Mỹ (USD) điều chỉnh giảm sau khi tăng cường sức mạnh so với các đối thủ vào thứ Tư, được hỗ trợ bởi các dữ liệu mạnh mẽ và lập trường thận trọng của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) về việc nới lỏng chính sách. Lịch kinh tế châu Âu sẽ có dữ liệu lạm phát sơ bộ tháng 7 từ Đức và Tỷ lệ thất nghiệp khu vực đồng euro cho tháng 6. Trong nửa cuối ngày, số đơn yêu cầu trợ cấp thất nghiệp lần đầu hàng tuần và dữ liệu Chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) từ Mỹ sẽ được những người tham gia thị trường theo dõi chặt chẽ.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ mạnh nhất so với Đồng Euro.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | 2.66% | 1.15% | 0.65% | 0.76% | 1.54% | 1.32% | 1.79% | |
EUR | -2.66% | -1.49% | -1.91% | -1.85% | -1.09% | -1.30% | -0.85% | |
GBP | -1.15% | 1.49% | -0.61% | -0.36% | 0.41% | 0.20% | 0.65% | |
JPY | -0.65% | 1.91% | 0.61% | 0.12% | 0.85% | 0.65% | 1.28% | |
CAD | -0.76% | 1.85% | 0.36% | -0.12% | 0.75% | 0.56% | 1.01% | |
AUD | -1.54% | 1.09% | -0.41% | -0.85% | -0.75% | -0.21% | 0.22% | |
NZD | -1.32% | 1.30% | -0.20% | -0.65% | -0.56% | 0.21% | 0.45% | |
CHF | -1.79% | 0.85% | -0.65% | -1.28% | -1.01% | -0.22% | -0.45% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Chỉ số USD tăng 1% vào thứ Tư và đạt mức cao nhất trong hai tháng gần 100,00. Ước tính đầu tiên của Cục Phân tích Kinh tế Mỹ cho thấy Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Mỹ tăng trưởng với tốc độ hàng năm là 3% trong quý hai. Đọc số này theo sau mức giảm 0,5% được báo cáo trong quý đầu tiên và vượt qua kỳ vọng của thị trường về mức tăng 2,4%. Ngoài ra, Cơ quan xử lý dữ liệu tự động (ADP) thông báo rằng việc làm trong khu vực tư nhân đã tăng 104.000 trong tháng 7, vượt qua ước tính của các nhà phân tích là 78.000.
Vào cuối ngày, Fed đã giữ nguyên lãi suất chính sách trong khoảng 4,25%-4,5%, như mong đợi. Tuyên bố chính sách cho thấy Thống đốc Christopher Waller và Thống đốc Michelle Bowman đã bỏ phiếu ủng hộ việc cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản (bps). Trong cuộc họp báo sau cuộc họp, Chủ tịch Fed Jerome Powell đã không xác nhận việc cắt giảm lãi suất vào tháng 9, viện dẫn sự không chắc chắn xung quanh triển vọng lạm phát. Ngoài ra, Powell thừa nhận rằng chính sách hiện tại vẫn còn hơi thắt chặt nhưng thêm rằng nó không kìm hãm nền kinh tế.
Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ) thông báo vào thứ Năm rằng họ duy trì mục tiêu lãi suất ngắn hạn trong khoảng 0,40%-0,50%, như đã dự đoán. BoJ đã nhắc lại trong tuyên bố chính sách rằng có sự không chắc chắn cao xung quanh các phát triển chính sách thương mại và tác động của chúng đến nền kinh tế, đồng thời cho biết họ sẽ tiếp tục tăng lãi suất chính sách nếu nền kinh tế và giá cả di chuyển theo đúng dự báo của họ. Sau khi tăng lên mức cao nhất kể từ đầu tháng 4 trên 149,50 vào cuối ngày thứ Tư, USD/JPY điều chỉnh giảm và giao dịch dưới 149,00 trong phiên châu Âu vào thứ Năm.
USD/CAD tăng khoảng 0,5% vào thứ Tư và đóng cửa ngày thứ năm liên tiếp trong vùng tích cực. Ngân hàng trung ương Canada (BoC) giữ nguyên lãi suất chính sách ở mức 2,75% và Thống đốc BoC Tiff Macklem cho biết họ sẽ đảm bảo rằng vấn đề thuế quan không trở thành vấn đề lạm phát. Đầu ngày thứ Năm, USD/CAD giảm nhẹ nhưng vẫn giữ trên 1,3800.
EUR/USD giảm hơn 1% vào thứ Tư và kiểm tra mức 1,1400. Cặp này phục hồi vào buổi sáng châu Âu và giao dịch trong vùng tích cực gần 1,1450.
Sau một đợt phục hồi ngắn vào đầu ngày thứ Tư, Vàng đã quay đầu giảm trong nửa cuối ngày và giảm xuống mức thấp nhất trong tháng dưới 3.270$, bị áp lực bởi lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ tăng. XAU/USD lấy đà phục hồi trong phiên châu Âu vào thứ Năm và giao dịch hơi trên 3.300$.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.