Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Năm, ngày 26 tháng 6:
Đồng Đô la Mỹ (USD) vẫn chịu áp lực giảm giá trong nửa sau của tuần, với Chỉ số USD giảm xuống mức yếu nhất kể từ tháng 3 năm 2022 dưới 97,50. Dữ liệu Đơn hàng Hàng hóa Bền vững và Doanh số Nhà Đang Chờ sẽ được đưa vào lịch kinh tế của Mỹ, cùng với số liệu Đơn xin trợ cấp thất nghiệp ban đầu hàng tuần. Các nhà hoạch định chính sách từ các ngân hàng trung ương lớn sẽ có bài phát biểu trong suốt cả ngày.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Bảng Anh.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -2.11% | -2.41% | -1.82% | -0.38% | -1.59% | -1.73% | -1.95% | |
EUR | 2.11% | -0.33% | 0.35% | 1.77% | 0.49% | 0.39% | 0.12% | |
GBP | 2.41% | 0.33% | 0.69% | 2.10% | 0.82% | 0.72% | 0.45% | |
JPY | 1.82% | -0.35% | -0.69% | 1.43% | 0.19% | 0.13% | -0.23% | |
CAD | 0.38% | -1.77% | -2.10% | -1.43% | -1.16% | -1.36% | -1.63% | |
AUD | 1.59% | -0.49% | -0.82% | -0.19% | 1.16% | -0.12% | -0.36% | |
NZD | 1.73% | -0.39% | -0.72% | -0.13% | 1.36% | 0.12% | -0.26% | |
CHF | 1.95% | -0.12% | -0.45% | 0.23% | 1.63% | 0.36% | 0.26% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Đồng USD đã yếu đi so với các đối thủ vào cuối ngày thứ Tư và gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nhu cầu vào đầu ngày thứ Năm sau khi có tin tức cho rằng Tổng thống Hoa Kỳ (Mỹ) Donald Trump đang xem xét việc chỉ định ứng cử viên Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tiếp theo sớm, nhằm làm suy yếu Chủ tịch Fed Jerome Powell. Trích dẫn những người quen thuộc với vấn đề này, Wall Street Journal báo cáo rằng Trump có thể công bố người thay thế Powell vào tháng 9 hoặc tháng 10. Kevin Hassett, Giám đốc Hội đồng Kinh tế Quốc gia, và Bộ trưởng Tài chính Scott Bessent là một trong những cái tên đang được xem xét, với Trump đánh giá cam kết của họ trong việc hạ lãi suất. Trong khi đó, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giao dịch tăng nhẹ trong buổi sáng châu Âu.
EUR/USD hưởng lợi từ sự yếu kém chung của USD và giao dịch ở mức cao nhất kể từ tháng 9 năm 2021 trên 1,1700 vào đầu ngày thứ Năm.
Sau khi ghi nhận mức tăng trong bốn ngày giao dịch liên tiếp vào thứ Tư, GBP/USD duy trì đà tăng giá và giao dịch trên 1,3700 lần đầu tiên kể từ tháng 1 năm 2022.
USD/CAD giảm nhẹ và kiểm tra mức 1,3700 trong phiên giao dịch châu Âu. Statistics Canada sẽ công bố dữ liệu Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hàng tháng cho tháng 4 vào thứ Sáu.
USD/JPY vẫn ở thế yếu sau khi ghi nhận mức tăng nhỏ vào thứ Tư và giao dịch gần 144,00 vào thứ Năm, giảm gần 1% trong ngày.
AUD/USD kéo dài đà tăng hàng tuần và giao dịch trên 0,6500 trong phiên giao dịch châu Âu vào thứ Năm.
Sau khi giảm mạnh vào đầu tuần, Vàng đã tìm thấy hỗ trợ và ghi nhận mức tăng nhỏ vào thứ Tư. XAU/USD tiếp tục tăng nhẹ và tiến gần đến 3.350$ vào đầu ngày thứ Năm.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.