EUR/USD tăng giá vào thứ Năm trong ngày thứ sáu liên tiếp và đang giao dịch gần khu vực 1,1700 tại thời điểm viết bài, ở mức cao nhất kể từ tháng 9 năm 2021. Các báo cáo tin tức cho biết Tổng thống Mỹ Donald Trump đang xem xét việc công bố sớm người kế nhiệm Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang (Fed) Jerome Powell đã làm rúng động thị trường và khiến đồng Đô la Mỹ (USD) giảm giá.
Một báo cáo của Wall Street Journal cho thấy Trump đang xem xét công bố tên người thay thế Jerome Powell vào tháng 9 hoặc tháng 10. Đây sẽ là một động thái không bình thường, vì Powell sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào tháng 5 tới, và sẽ tạo ra một Thống đốc Fed bóng mờ và làm suy yếu uy tín của ngân hàng trung ương.
Tin tức này đến sau khi Powell khẳng định giọng điệu thận trọng của mình về việc cắt giảm lãi suất thêm trong phiên điều trần bán niên trước Quốc hội, điều này đã kích hoạt cuộc tấn công thứ nhiều từ Tổng thống Trump, gọi ông là "tồi tệ" và cho biết ông có "ba đến bốn" ứng cử viên để thay thế ông.
Khi căng thẳng địa chính trị không còn là tâm điểm, khi lệnh ngừng bắn giữa Iran và Israel giữ vững trong ngày thứ ba, chính sách thương mại thất thường của Trump lại trở thành tâm điểm. Hạn chót ngày 9 tháng 7 đang đến gần, và không có dấu hiệu tiến triển trong các thỏa thuận thương mại với các đối tác chính. Đây là một nguồn áp lực tiêu cực khác đối với đồng Đô la Mỹ.
Lịch kinh tế của Mỹ hôm nay rất bận rộn với đơn đặt hàng hàng hóa lâu bền tháng 5 và số liệu cuối cùng của Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) quý đầu tiên thu hút sự chú ý. Tuy nhiên, điểm nhấn của tuần sẽ là Chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) vào thứ Sáu. Đây là thước đo lạm phát mà Fed ưa chuộng và sẽ được theo dõi chặt chẽ để đánh giá kỳ vọng nới lỏng của Fed.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đồng Euro (EUR) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê hôm nay. Đồng Euro mạnh nhất so với Đô la Mỹ.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -0.37% | -0.50% | -0.69% | -0.16% | -0.37% | -0.24% | -0.37% | |
EUR | 0.37% | -0.09% | -0.35% | 0.23% | 0.04% | 0.14% | 0.01% | |
GBP | 0.50% | 0.09% | -0.28% | 0.32% | 0.12% | 0.24% | 0.10% | |
JPY | 0.69% | 0.35% | 0.28% | 0.55% | 0.36% | 0.45% | 0.34% | |
CAD | 0.16% | -0.23% | -0.32% | -0.55% | -0.20% | -0.17% | -0.22% | |
AUD | 0.37% | -0.04% | -0.12% | -0.36% | 0.20% | 0.02% | -0.02% | |
NZD | 0.24% | -0.14% | -0.24% | -0.45% | 0.17% | -0.02% | -0.05% | |
CHF | 0.37% | -0.01% | -0.10% | -0.34% | 0.22% | 0.02% | 0.05% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đồng Euro từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đô la Mỹ, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho EUR (đồng tiền cơ sở)/USD (đồng tiền định giá).
EUR/USD tiếp tục tăng giá trong giao dịch sớm vào thứ Năm, được hưởng lợi từ sự yếu kém của đồng Đô la Mỹ, và đạt mục tiêu của mô hình cờ tăng giá trong hai tuần trước, ngay trên mức 1,1700. Bối cảnh cơ bản vẫn hỗ trợ, nhưng chỉ báo Chỉ số sức mạnh tương đối (RSI) trong 14 kỳ trên biểu đồ 4 giờ đã đạt đến vùng quá mua, điều này gợi ý rằng một sự hợp nhất hoặc thậm chí một sự điều chỉnh giảm có thể xảy ra.
Về phía giảm, cặp tiền này có thể tìm thấy hỗ trợ tại khu vực kháng cự trước đó gần 1,1630 (các mức cao ngày 12, 24 tháng 6) trước 1,1585 (các mức thấp ngày 24, 25 tháng 6) và đường xu hướng dốc xuống, hiện ở mức 1,1520.
Kháng cự ngay lập tức nằm ở khu vực 1,1700, mức mở rộng Fibonacci 127,2% của đợt tăng giá từ ngày 10-12 tháng 6, và trên mức này, 1,1795, mức mở rộng Fibonacci 161,8% của đợt tăng giá đã đề cập.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.