Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Năm, ngày 15 tháng 5:
Đồng đô la Mỹ (USD) gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nhu cầu để bắt đầu phiên giao dịch châu Âu vào thứ Năm sau những biến động không ổn định vào thứ Tư. Lịch kinh tế châu Âu sẽ có bản sửa đổi dữ liệu tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Khu vực đồng euro trong quý đầu tiên. Vào cuối ngày, Chỉ số giá sản xuất (PPI) tháng 4, Doanh số bán lẻ và dữ liệu về Tuyên bố thất nghiệp lần đầu hàng tuần từ Mỹ sẽ được những người tham gia thị trường theo dõi chặt chẽ. Ngoài ra, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (Fed) Jerome Powell sẽ có bài phát biểu về việc xem xét khung chính sách của Fed tại Hội nghị Nghiên cứu Thomas Laubach ở Washington, DC.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ mạnh nhất so với Đô la Canada.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | 0.34% | 0.15% | -0.31% | 0.59% | -0.22% | 0.42% | 0.43% | |
EUR | -0.34% | -0.06% | -0.10% | 0.75% | 0.07% | 0.57% | 0.58% | |
GBP | -0.15% | 0.06% | 0.14% | 0.81% | 0.14% | 0.56% | 0.64% | |
JPY | 0.31% | 0.10% | -0.14% | 0.87% | -0.55% | -0.14% | 0.49% | |
CAD | -0.59% | -0.75% | -0.81% | -0.87% | -0.53% | -0.17% | -0.17% | |
AUD | 0.22% | -0.07% | -0.14% | 0.55% | 0.53% | 0.40% | 0.47% | |
NZD | -0.42% | -0.57% | -0.56% | 0.14% | 0.17% | -0.40% | -0.02% | |
CHF | -0.43% | -0.58% | -0.64% | -0.49% | 0.17% | -0.47% | 0.02% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Sau khi giảm mạnh trong nửa đầu ngày thứ Tư, Chỉ số USD đã đảo chiều trong phiên giao dịch Mỹ và đóng cửa ngày gần như không thay đổi. Sáng thứ Năm, Chỉ số USD vẫn ở thế yếu và giảm về phía 100,50, mất hơn 0,3% trong ngày. Trong khi đó, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giảm từ 0,3% đến 0,5% trong buổi sáng châu Âu, phản ánh tâm lý thận trọng của thị trường.
Trước đó trong ngày, dữ liệu từ Úc cho thấy Tỷ lệ thất nghiệp giữ ổn định ở mức 4,1% trong tháng 4, như dự kiến. Trong thời gian này, Thay đổi việc làm là +89K, so với kỳ vọng của thị trường là +20K. Sau khi đóng cửa ngày trong vùng tiêu cực vào thứ Tư, AUD/USD giữ vững và tăng nhẹ về phía 0,6450 vào thứ Năm.
Văn phòng Thống kê Quốc gia Vương quốc Anh báo cáo vào thứ Năm rằng GDP đã mở rộng với tỷ lệ hàng năm là 1,3% trong quý đầu tiên. Con số này theo sau mức tăng trưởng 1,5% được ghi nhận trong quý trước và tốt hơn so với kỳ vọng của thị trường là 1,2%. Dữ liệu khác từ Vương quốc Anh cho thấy Sản xuất công nghiệp và Sản xuất chế tạo giảm lần lượt 0,7% và 0,8% so với tháng trước trong tháng 3. GBP/USD tăng lực kéo trong phiên giao dịch châu Âu và giao dịch trong vùng tích cực gần 1,3300.
Vàng đã giảm xuống dưới 3.200$ và mất hơn 2% vào thứ Tư. XAU/USD tiếp tục giảm trong tuần và giao dịch ở mức thấp nhất kể từ ngày 10 tháng 4 dưới 3.150$, mất gần 1% trong ngày. Sự giảm bớt căng thẳng địa chính trị dường như đang đè nặng lên kim loại quý này. Tổng thống Mỹ Donald Trump cho biết vào thứ Năm rằng họ đang rất gần để đạt được thỏa thuận hạt nhân với Iran và thêm rằng Ấn Độ đã đề nghị một thỏa thuận thương mại với "hầu như không có thuế" cho Mỹ.
EUR/USD tăng lực kéo và giao dịch trên 1,1200 sau khi ghi nhận mức lỗ nhỏ vào thứ Tư. Eurostat sẽ công bố dữ liệu Thay đổi việc làm quý đầu tiên và dữ liệu Sản xuất công nghiệp tháng 3 bên cạnh bản sửa đổi GDP. Một số nhà hoạch định chính sách của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) sẽ có bài phát biểu vào cuối ngày.
Sau hai ngày giảm, USD/JPY vẫn chịu áp lực giảm giá và mất hơn 0,5% trong ngày dưới 146,00 trong phiên giao dịch châu Âu vào thứ Năm. Văn phòng Nội các Nhật Bản sẽ công bố dữ liệu GDP quý 1 vào đầu phiên giao dịch châu Á vào thứ Sáu.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.