Cặp USD/JPY giao dịch thấp hơn 0,75% xuống gần 155,80 trong phiên giao dịch châu Âu vào thứ Ba. Cặp này phải đối mặt với áp lực bán mạnh khi đồng đô la Mỹ (USD) kém hiệu quả giữa những kỳ vọng rằng Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ thực hiện nhiều lần cắt giảm lãi suất hơn vào năm 2026 so với những gì đã được tín hiệu trong thông báo chính sách tiền tệ vào ngày 17 tháng 12.
Tại thời điểm viết bài, Chỉ số đô la Mỹ (DXY), theo dõi giá trị của đồng bạc xanh so với sáu loại tiền tệ chính, đã quay lại mức thấp hơn 11 tuần gần 97,85.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê hôm nay. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đô la New Zealand.
| USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| USD | -0.35% | -0.40% | -0.69% | -0.36% | -0.58% | -0.79% | -0.60% | |
| EUR | 0.35% | -0.05% | -0.35% | -0.00% | -0.24% | -0.44% | -0.25% | |
| GBP | 0.40% | 0.05% | -0.27% | 0.04% | -0.18% | -0.39% | -0.20% | |
| JPY | 0.69% | 0.35% | 0.27% | 0.33% | 0.13% | -0.13% | 0.11% | |
| CAD | 0.36% | 0.00% | -0.04% | -0.33% | -0.20% | -0.44% | -0.23% | |
| AUD | 0.58% | 0.24% | 0.18% | -0.13% | 0.20% | -0.21% | -0.02% | |
| NZD | 0.79% | 0.44% | 0.39% | 0.13% | 0.44% | 0.21% | 0.19% | |
| CHF | 0.60% | 0.25% | 0.20% | -0.11% | 0.23% | 0.02% | -0.19% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Công cụ CME FedWatch cho thấy có 73,8% khả năng rằng Fed sẽ giảm lãi suất ít nhất 50 bps vào năm tới. Điều này trái ngược với những gì biểu đồ dấu chấm của Fed cho thấy vào tuần trước. Theo biểu đồ dấu chấm, các nhà hoạch định chính sách nhìn chung thấy lãi suất quỹ liên bang giảm xuống 3,4% từ mức hiện tại 3,50%-3,75%, cho thấy sẽ chỉ có một lần cắt giảm lãi suất vào năm 2026.
Những kỳ vọng ôn hòa từ Fed đã gia tăng do điều kiện thị trường lao động yếu và các dấu hiệu từ một loạt báo cáo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trước đó cho thấy tác động hạn chế của thuế quan đối với lạm phát.
Trong thời gian tới, yếu tố kích thích tiếp theo cho đồng đô la Mỹ sẽ là dữ liệu Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) quý 3 sơ bộ, sẽ được công bố vào lúc 13:30 GMT. Các nhà đầu tư sẽ theo dõi chặt chẽ dữ liệu này để có những tín hiệu mới về tình hình kinh tế hiện tại.
Trong khi đó, sự vượt trội của đồng yên Nhật (JPY), sau những cảnh báo về can thiệp của Nhật Bản từ Bộ trưởng Tài chính (FM) Satsuki Katayama để hỗ trợ đồng tiền này chống lại những động thái thái quá một chiều, đã ảnh hưởng nặng nề đến cặp này.
Trước đó trong ngày, Bộ trưởng Tài chính Satsuki Katayama cho biết, "Nhật Bản có quyền tự do trong việc xử lý những động thái thái quá đối với đồng yên." Bà thêm rằng chính quyền sẽ thực hiện "hành động thích hợp đối với những động thái thái quá".
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.