Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Hai, ngày 8 tháng 12:
Đồng đô la Mỹ (USD) suy yếu so với các đối thủ chính vào thứ Hai, với chỉ số USD vẫn nằm trong vùng tiêu cực dưới 99,00 sau hai tuần liên tiếp thua lỗ. Lịch kinh tế châu Âu sẽ có dữ liệu Niềm tin Nhà đầu tư Sentix cho tháng 12 vào cuối phiên.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tháng này. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đô la Úc.
| USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| USD | -0.56% | -0.70% | -0.57% | -1.13% | -1.46% | -0.91% | -0.02% | |
| EUR | 0.56% | -0.15% | 0.00% | -0.57% | -0.90% | -0.35% | 0.55% | |
| GBP | 0.70% | 0.15% | 0.41% | -0.43% | -0.76% | -0.21% | 0.69% | |
| JPY | 0.57% | 0.00% | -0.41% | -0.56% | -0.91% | -0.35% | 0.54% | |
| CAD | 1.13% | 0.57% | 0.43% | 0.56% | -0.39% | 0.23% | 1.12% | |
| AUD | 1.46% | 0.90% | 0.76% | 0.91% | 0.39% | 0.56% | 1.46% | |
| NZD | 0.91% | 0.35% | 0.21% | 0.35% | -0.23% | -0.56% | 0.90% | |
| CHF | 0.02% | -0.55% | -0.69% | -0.54% | -1.12% | -1.46% | -0.90% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Kỳ vọng ngày càng tăng về triển vọng chính sách ôn hòa của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) đã ảnh hưởng đến USD kể từ đầu tháng 12. Vào thứ Tư, Fed sẽ công bố quyết định lãi suất và phát hành Tóm tắt Dự báo Kinh tế (SEP) đã được điều chỉnh, điều này có thể ảnh hưởng đến hiệu suất của USD trong mùa lễ hội. Trước cuộc họp của Fed, Cục Thống kê Lao động Mỹ sẽ công bố dữ liệu Cơ hội việc làm JOLTS cho tháng 10 vào thứ Ba. Trong khi đó, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán của Mỹ giao dịch cao hơn một cách khiêm tốn vào buổi sáng châu Âu vào thứ Hai.
Trong phiên giao dịch châu Á, dữ liệu từ Trung Quốc cho thấy Xuất khẩu tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước trong tháng 11, trong khi Nhập khẩu tăng 1,9% trong cùng kỳ. Do đó, Cán cân thương mại của Trung Quốc, tính theo Nhân dân tệ (CNY), cho tháng 11 đã mở rộng lên 792,57 tỷ CNY từ 640,40 tỷ CNY trong tháng 10.
AUD/USD giữ vững vị thế vào thứ Hai và dao động quanh mức 0,6650 sau khi tăng gần 1,5% trong tuần trước. Trong phiên giao dịch châu Á vào thứ Ba, Ngân hàng Dự trữ Úc (RBA) dự kiến sẽ giữ nguyên lãi suất chính sách ở mức 3,6%.
USD/JPY ổn định trên 155,00 để bắt đầu tuần. Bộ trưởng Tài chính Nhật Bản Satsuki Katayama cho biết vào thứ Hai rằng ông gần đây đã thấy những biến động một chiều và nhanh chóng trên thị trường ngoại hối, và nhấn mạnh rằng họ sẽ thực hiện các hành động thích hợp nếu cần thiết.
Sau những biến động không ổn định trong nửa sau tuần trước, EUR/USD tăng nhẹ vào đầu ngày thứ Hai và giao dịch trong vùng tích cực trên 1,1660.
GBP/USD vẫn trong giai đoạn củng cố trên 1,3300 trong phiên giao dịch châu Âu vào thứ Hai, sau khi tăng khoảng 0,75% trong tuần trước.
Vàng không thể thực hiện một động thái quyết định theo bất kỳ hướng nào trong tuần trước nhưng đã giữ vững trên mức 4.200$. Trong buổi sáng châu Âu vào thứ Hai, XAU/USD giao dịch cao hơn một chút trong ngày trên 4.210$.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.