Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Sáu, ngày 5 tháng 12:
Sau khi kiên cường trước các đối thủ vào thứ Năm, Đồng đô la Mỹ (USD) gặp khó khăn trong việc thu hút người mua vào đầu ngày thứ Sáu. Trong nửa sau của ngày, Cục Phân tích Kinh tế Mỹ (BEA) sẽ công bố dữ liệu Chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) cho tháng 9, thước đo lạm phát ưa thích của Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Sau đó trong phiên giao dịch Mỹ, các nhà đầu tư sẽ chú ý đến báo cáo Chỉ số tâm lý người tiêu dùng của Đại học Michigan (UoM) cho tháng 12.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đô la Úc.
| USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| USD | -0.51% | -0.80% | -0.97% | -0.20% | -1.15% | -0.66% | -0.06% | |
| EUR | 0.51% | -0.28% | -0.45% | 0.32% | -0.64% | -0.14% | 0.46% | |
| GBP | 0.80% | 0.28% | 0.08% | 0.60% | -0.36% | 0.14% | 0.74% | |
| JPY | 0.97% | 0.45% | -0.08% | 0.77% | -0.21% | 0.30% | 0.90% | |
| CAD | 0.20% | -0.32% | -0.60% | -0.77% | -1.01% | -0.46% | 0.14% | |
| AUD | 1.15% | 0.64% | 0.36% | 0.21% | 1.01% | 0.50% | 1.10% | |
| NZD | 0.66% | 0.14% | -0.14% | -0.30% | 0.46% | -0.50% | 0.60% | |
| CHF | 0.06% | -0.46% | -0.74% | -0.90% | -0.14% | -1.10% | -0.60% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Các dữ liệu lạc quan từ Mỹ đã giúp USD giữ vững vị thế vào thứ Năm. Challenger, Gray & Christmas báo cáo rằng số lượng cắt giảm việc làm dự kiến đã giảm 53% từ tháng 10 xuống còn 71.321 trong tháng 11. Thêm vào đó, báo cáo hàng tuần của Bộ Lao động Mỹ cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu đã giảm xuống 191.000 từ 218.000 trong tuần trước. Đọc số này tốt hơn so với kỳ vọng của thị trường là 220.000. Tuy nhiên, xác suất cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản (bps) của Fed trong tháng 12 theo Công cụ FedWatch của CME Group vẫn ổn định ở mức khoảng 90% ngay cả sau những con số này, khiến sự phục hồi của USD vẫn nông. Chỉ số USD vẫn ở thế yếu và dao động trong vùng tiêu cực dưới 99,00 vào buổi sáng thứ Sáu tại châu Âu.
USD/CAD đóng cửa tăng nhẹ vào thứ Năm nhưng đã giảm xuống khu vực 1,3950 vào đầu ngày thứ Sáu. Sau đó trong phiên, Cơ quan Thống kê Canada sẽ công bố dữ liệu việc làm tháng 11. Các nhà đầu tư dự kiến Tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng lên 7% từ mức 6,9% trong tháng 10.
Bộ trưởng Tài chính Nhật Bản Satsuki Katayama cho biết vào thứ Sáu rằng lãi suất bị ảnh hưởng bởi "các yếu tố khác nhau" và nhấn mạnh rằng chính phủ sẽ theo dõi chặt chẽ các diễn biến trên thị trường, theo đuổi các chính sách quản lý nợ phù hợp và xây dựng ngân sách với sự bền vững tài chính trong tâm trí. Sau khi đóng cửa giảm nhẹ vào thứ Năm, USD/JPY tiếp tục giảm vào thứ Sáu và lần cuối được nhìn thấy giảm 0,3% trong ngày ở mức 154,65.
EUR/USD giảm khoảng 0,25% vào thứ Năm và chấm dứt chuỗi tăng tám ngày. Cặp này lấy lại đà trong buổi sáng châu Âu và giao dịch trên mức 1,1650. Eurostat sẽ công bố các điều chỉnh cho dữ liệu Thay đổi việc làm và Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) quý ba sau đó trong phiên.
Sau đợt tăng mạnh vào thứ Tư, GBP/USD đã điều chỉnh giảm vào thứ Năm và kết thúc ngày với mức giảm nhỏ. Cặp này giữ ổn định quanh mức 1,3350 trong phiên giao dịch đầu giờ châu Âu vào thứ Sáu.
Vàng gặp khó khăn trong việc thực hiện một động thái quyết định theo bất kỳ hướng nào vào thứ Năm và kết thúc ngày thứ hai liên tiếp gần như không thay đổi. XAU/USD tăng nhẹ vào đầu ngày thứ Sáu và giao dịch trên mức 4.200$.
Lạm phát đo lường mức tăng giá của một rổ hàng hóa và dịch vụ tiêu biểu. Lạm phát tiêu đề thường được thể hiện dưới dạng phần trăm thay đổi theo tháng (hàng tháng) và theo năm (hàng năm). Lạm phát cốt lõi không bao gồm các yếu tố dễ biến động hơn như thực phẩm và nhiên liệu có thể dao động do các yếu tố địa chính trị và theo mùa. Lạm phát cốt lõi là con số mà các nhà kinh tế tập trung vào và là mức mà các ngân hàng trung ương nhắm tới, được giao nhiệm vụ giữ lạm phát ở mức có thể kiểm soát được, thường là khoảng 2%.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo lường sự thay đổi giá của một rổ hàng hóa và dịch vụ trong một khoảng thời gian. Chỉ số này thường được thể hiện dưới dạng phần trăm thay đổi theo tháng (hàng tháng) và theo năm (hàng năm). CPI cơ bản là con số mà các ngân hàng trung ương nhắm đến vì nó không bao gồm các đầu vào thực phẩm và nhiên liệu biến động. Khi CPI cơ bản tăng trên 2%, thường dẫn đến lãi suất cao hơn và ngược lại khi giảm xuống dưới 2%. Vì lãi suất cao hơn là tích cực đối với một loại tiền tệ, nên lạm phát cao hơn thường dẫn đến một loại tiền tệ mạnh hơn. Điều ngược lại xảy ra khi lạm phát giảm.
Mặc dù có vẻ trái ngược với thông thường, lạm phát cao ở một quốc gia sẽ đẩy giá trị đồng tiền của quốc gia đó lên và ngược lại đối với lạm phát thấp hơn. Điều này là do ngân hàng trung ương thường sẽ tăng lãi suất để chống lại lạm phát cao hơn, điều này thu hút nhiều dòng vốn toàn cầu hơn từ các nhà đầu tư đang tìm kiếm một nơi sinh lợi để gửi tiền của họ.
Trước đây, Vàng là tài sản mà các nhà đầu tư hướng đến trong thời kỳ lạm phát cao vì nó bảo toàn giá trị của nó, và trong khi các nhà đầu tư thường vẫn mua Vàng vì tính chất trú ẩn an toàn của nó trong thời kỳ thị trường biến động cực độ, thì hầu hết thời gian không phải vậy. Điều này là do khi lạm phát cao, các ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi suất để chống lại lạm phát. Lãi suất cao hơn là tiêu cực đối với Vàng vì chúng làm tăng chi phí cơ hội khi nắm giữ Vàng so với tài sản sinh lãi hoặc gửi tiền vào tài khoản tiền gửi bằng tiền mặt. Mặt khác, lạm phát thấp hơn có xu hướng tích cực đối với Vàng vì nó làm giảm lãi suất, khiến kim loại sáng này trở thành một lựa chọn đầu tư khả thi hơn.