Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Tư, ngày 3 tháng 12:
Đồng Đô la Mỹ (USD) tiếp tục yếu vào đầu ngày thứ Tư sau khi đóng cửa trong vùng tiêu cực vào thứ Hai và thứ Ba. Trong nửa cuối của ngày, dữ liệu việc làm khu vực tư nhân của Cơ quan xử lý dữ liệu tự động (ADP) và báo cáo Chỉ số người quản trị mua hàng (PMI) dịch vụ của Viện Quản lý Cung ứng (ISM) cho tháng 11 sẽ được công bố trong lịch kinh tế của Mỹ.
Những kỳ vọng ngày càng tăng về một triển vọng ôn hòa từ Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump gợi ý rằng ông muốn đề cử cố vấn kinh tế hàng đầu của mình, Kevin Hassett, để thay thế Chủ tịch Fed sắp mãn nhiệm Jerome Powell vào năm tới đã khiến USD khó tìm được nhu cầu. Chỉ số USD giảm nhẹ về phía 99,00 vào buổi sáng thứ Tư tại châu Âu. Trong khi đó, tâm lý thị trường vẫn tương đối lạc quan giữa tuần, với các hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ tăng từ 0,2% đến 0,3%.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đô la Úc.
| USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| USD | -0.40% | 0.02% | -0.30% | -0.04% | -0.53% | -0.38% | -0.19% | |
| EUR | 0.40% | 0.42% | 0.11% | 0.35% | -0.13% | 0.00% | 0.21% | |
| GBP | -0.02% | -0.42% | -0.06% | -0.05% | -0.54% | -0.40% | -0.21% | |
| JPY | 0.30% | -0.11% | 0.06% | 0.26% | -0.24% | -0.09% | 0.10% | |
| CAD | 0.04% | -0.35% | 0.05% | -0.26% | -0.54% | -0.34% | -0.16% | |
| AUD | 0.53% | 0.13% | 0.54% | 0.24% | 0.54% | 0.15% | 0.33% | |
| NZD | 0.38% | -0.01% | 0.40% | 0.09% | 0.34% | -0.15% | 0.19% | |
| CHF | 0.19% | -0.21% | 0.21% | -0.10% | 0.16% | -0.33% | -0.19% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Về các cuộc đàm phán hòa bình giữa Nga và Ukraine, trích dẫn một cố vấn có mặt tại cuộc họp, BBC báo cáo rằng các cuộc trò chuyện giữa Tổng thống Nga Putin và đặc phái viên Mỹ Steve Witkoff là "có tính xây dựng" nhưng vẫn còn "nhiều việc phải làm." Thêm vào đó, trợ lý của Điện Kremlin, Yuri Ushakov, cho biết rằng "không có thỏa hiệp" nào đạt được về nhượng bộ lãnh thổ từ phía Ukraine.
Dữ liệu từ Úc cho thấy vào đầu ngày rằng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã tăng trưởng với tốc độ hàng năm là 2,1% trong quý thứ ba. Số liệu này theo sau mức tăng 1,8% được ghi nhận trong quý thứ hai và thấp hơn một chút so với kỳ vọng của thị trường là 2,2%. AUD/USD duy trì đà tăng của mình vào đầu ngày thứ Tư và giao dịch ở mức cao nhất kể từ cuối tháng 10, trên 0,6580.
EUR/USD tiếp tục tăng trưởng hàng tuần và leo lên khoảng 1,1650 vào buổi sáng châu Âu. Sau đó trong phiên, Eurostat sẽ công bố số liệu Chỉ số giá sản xuất (PPI) cho tháng 10. Thêm vào đó, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Châu Âu, Christine Lagarde, sẽ phát biểu tại một phiên điều trần trước Ủy ban Kinh tế và Tài chính (ECON) của Nghị viện Châu Âu tại Brussels, Bỉ.
Sau khi chạm mức cao nhất trong khoảng sáu tuần trên 4.260$ vào thứ Hai, Vàng đã điều chỉnh giảm và đóng cửa trong vùng tiêu cực vào thứ Ba. XAU/USD ổn định vào đầu ngày thứ Tư và dao động trong một kênh hẹp trên 4.200$.
GBP/USD gặp khó khăn trong việc tận dụng sự yếu kém chung của USD và ghi nhận mức lỗ nhỏ vào thứ Hai và thứ Ba. Cặp tiền này giữ vững vị trí của mình vào buổi sáng châu Âu và phục hồi về phía 1,3250.
Sau khi giảm vào thứ Hai, USD/JPY đã phục hồi vào thứ Ba khi bầu không khí thị trường tích cực làm giảm áp lực lên đồng yên Nhật (JPY) trú ẩn an toàn. Cặp tiền này giao dịch đi ngang trong một kênh hẹp trên 155,70 vào buổi sáng thứ Tư tại châu Âu.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.