Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Hai, ngày 17 tháng 11:
Đồng đô la Mỹ giữ vững trước các đối thủ chính để bắt đầu tuần mới khi thị trường đánh giá lại xác suất cắt giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) vào tháng 12. Trong nửa cuối ngày, các nhà hoạch định chính sách từ các ngân hàng trung ương lớn sẽ có bài phát biểu. Các nhà đầu tư cũng sẽ chú ý đến báo cáo lạm phát tháng 10 từ Canada.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê hôm nay. Đô la Mỹ mạnh nhất so với Đồng Yên Nhật.
| USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| USD | 0.09% | 0.03% | 0.14% | -0.01% | 0.10% | -0.03% | 0.03% | |
| EUR | -0.09% | -0.07% | 0.09% | -0.08% | 0.01% | -0.12% | -0.05% | |
| GBP | -0.03% | 0.07% | 0.12% | -0.03% | 0.07% | -0.08% | 0.00% | |
| JPY | -0.14% | -0.09% | -0.12% | -0.16% | -0.07% | -0.20% | -0.13% | |
| CAD | 0.00% | 0.08% | 0.03% | 0.16% | 0.10% | -0.04% | 0.04% | |
| AUD | -0.10% | -0.01% | -0.07% | 0.07% | -0.10% | -0.13% | -0.05% | |
| NZD | 0.03% | 0.12% | 0.08% | 0.20% | 0.04% | 0.13% | 0.07% | |
| CHF | -0.03% | 0.05% | -0.00% | 0.13% | -0.04% | 0.05% | -0.07% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Những nhận xét diều hâu từ các quan chức Fed đã khiến các nhà đầu tư giảm đặt cược vào việc cắt giảm lãi suất vào tháng 12. Theo công cụ CME FedWatch, thị trường hiện đang định giá khoảng 56% khả năng Fed sẽ giữ nguyên lãi suất tại cuộc họp cuối cùng của năm, tăng từ khoảng 37% một tuần trước. Vào buổi sáng thứ Hai tại châu Âu, Chỉ số USD tăng nhẹ hướng tới 99,50. Cục Thống kê Lao động thông báo rằng họ sẽ công bố dữ liệu Bảng lương phi nông nghiệp cho tháng 9 vào thứ Năm. Trong khi đó, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ lần cuối được nhìn thấy tăng từ 0,1% đến 0,6% trong ngày. Bộ trưởng Tài chính Mỹ Scott Bessent cho biết vào cuối tuần rằng một thỏa thuận về đất hiếm giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ "hy vọng" được hoàn thành trước Lễ Tạ ơn, theo báo cáo của Reuters.
USD/CAD giao dịch trong một phạm vi hẹp trên 1,4000 sau khi đóng cửa tuần trước giảm nhẹ.
Dữ liệu từ Nhật Bản cho thấy vào đầu ngày rằng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã giảm với tỷ lệ hàng năm là 1,8% trong quý ba, sau khi tăng 2,3% trong quý hai. Kết quả này tốt hơn so với kỳ vọng của thị trường về một sự suy giảm 2,5%. USD/JPY giữ tương đối yên tĩnh vào buổi sáng thứ Hai tại châu Âu và giao dịch quanh mức 154,70. Thống đốc Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ) Kazuo Ueda cho biết vào thứ Hai rằng họ đang duy trì chính sách tiền tệ phù hợp vì tỷ lệ lạm phát cơ bản vẫn dưới mục tiêu.
EUR/USD vẫn trong giai đoạn củng cố, hơi trên 1,1600, trong phiên giao dịch châu Âu đầu tiên.
Sau khi tăng trong nửa đầu tuần trước, Vàng đã thực hiện một sự điều chỉnh mạnh và đóng cửa dưới 4.100$, xóa bỏ một phần lớn lợi nhuận hàng tuần của nó. Vào thứ Hai, XAU/USD giữ ổn định gần 4.070$.
GBP/USD kết thúc tuần trước gần như không thay đổi sau khi đóng cửa trong vùng tiêu cực vào thứ Sáu. Cặp này di chuyển đi ngang trên 1,3150 vào đầu ngày thứ Hai.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.