AUD/JPY giao dịch quanh mức 98,40 trong giờ châu Âu vào thứ Năm, sau khi phục hồi đà giảm hàng ngày. Cặp tiền này mạnh lên khi đồng đô la Úc (AUD) phục hồi nhờ triển vọng dòng vốn nước ngoài, với sự tăng giá của cổ phiếu tài chính, bất động sản và Vàng. Chỉ số S&P/ASX 200 tăng 0,86% để giao dịch trên 9.050 sau khi dữ liệu việc làm yếu hơn nhanh chóng làm tăng khả năng cắt giảm lãi suất vào tháng 11 từ 3,65% lên 76%, từ dưới 50% trước đó.
Cục Thống kê Úc (ABS) báo cáo vào thứ Năm rằng Thay đổi số người có việc làm đạt 14,9 nghìn trong tháng 9, so với kỳ vọng của thị trường là 17 nghìn. Đọc trước đó là -11,8 nghìn (được điều chỉnh từ -5,4 nghìn). Trong khi đó, Tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 4,5%, nhảy vọt lên mức cao gần bốn năm. Con số này cao hơn dự đoán của thị trường và mức 4,3% trước đó.
Phó Thống đốc RBA (Thị trường Tài chính) Christopher Kent đã phát biểu tại Hội nghị Đầu tư CFA Society Australia 2025 vào tối thứ Tư rằng các điều kiện tài chính ít hạn chế hơn sau các đợt cắt giảm lãi suất gần đây. Kent cũng cho biết rằng lãi suất tiền mặt hiện đang nằm trong một khoảng trung lập rộng lớn và không chắc chắn, với ngân hàng trung ương đang đánh giá lại triển vọng của mình với dữ liệu và rủi ro mới.
Cặp AUD/JPY có thể phải đối mặt với những thách thức khi đồng yên Nhật (JPY) nhận được sự hỗ trợ so với các đồng tiền khác, sau những nhận xét diều hâu từ thành viên hội đồng quản trị Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ) Naoki Tamura, người đã nói vào thứ Năm rằng ngân hàng trung ương nên đẩy lãi suất gần hơn với các mức được coi là trung lập. Tuy nhiên, Tamura đã từ chối bình luận khi được hỏi liệu có đề xuất tăng lãi suất tại cuộc họp tháng 10 hay không.
Lãi suất do các tổ chức tài chính tính cho các khoản vay của người đi vay và được trả dưới dạng lãi suất cho người gửi tiền và người tiết kiệm. Lãi suất này chịu ảnh hưởng của lãi suất cho vay cơ bản, do các ngân hàng trung ương thiết lập để ứng phó với những thay đổi trong nền kinh tế. Các ngân hàng trung ương thường có nhiệm vụ đảm bảo ổn định giá cả, trong hầu hết các trường hợp có nghĩa là nhắm mục tiêu vào tỷ lệ lạm phát cơ bản khoảng 2%. Nếu lạm phát giảm xuống dưới mục tiêu, ngân hàng trung ương có thể cắt giảm lãi suất cho vay cơ bản, nhằm mục đích kích thích cho vay và thúc đẩy nền kinh tế. Nếu lạm phát tăng đáng kể trên 2%, thông thường ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi suất cho vay cơ bản để cố gắng hạ lạm phát.
Lãi suất cao hơn thường giúp tăng giá trị đồng tiền của một quốc gia vì chúng khiến quốc gia này trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư toàn cầu để gửi tiền.
Lãi suất cao hơn nhìn chung sẽ gây áp lực lên giá Vàng vì làm tăng chi phí cơ hội khi nắm giữ Vàng thay vì đầu tư vào tài sản có lãi hoặc gửi tiền mặt vào ngân hàng. Nếu lãi suất cao, điều này thường đẩy giá Đô la Mỹ (USD) lên cao và vì Vàng được định giá bằng Đô la, điều này có tác dụng làm giảm giá Vàng.
Lãi suất quỹ Fed là lãi suất qua đêm mà các ngân hàng Hoa Kỳ cho nhau vay. Đây là lãi suất tiêu đề thường được Cục Dự trữ Liên bang đưa ra tại các cuộc họp FOMC. Lãi suất này được thiết lập theo phạm vi, ví dụ 4,75%-5,00%, mặc dù giới hạn trên (trong trường hợp đó là 5,00%) là con số được trích dẫn. Kỳ vọng của thị trường đối với lãi suất quỹ Fed trong tương lai được theo dõi bởi công cụ CME FedWatch, công cụ này định hình cách nhiều thị trường tài chính hành xử khi dự đoán các quyết định về chính sách tiền tệ trong tương lai của Cục Dự trữ Liên bang.