Cặp USD/CAD giảm xuống gần 1,4040 vào thứ Tư. Cặp Loonie giảm nhẹ trong phiên giao dịch châu Âu ngay cả khi đồng đô la Mỹ đã giảm, cho thấy đồng đô la Canada (CAD) cũng yếu.
Trong thời gian báo chí, chỉ số đô la Mỹ (DXY), theo dõi giá trị của đồng Greenback so với sáu đồng tiền chính, giao dịch giảm 0,2% xuống gần 98,80.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê hôm nay. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đô la Úc.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -0.17% | -0.28% | -0.24% | -0.06% | -0.50% | -0.04% | -0.10% | |
EUR | 0.17% | -0.06% | -0.09% | 0.09% | -0.29% | 0.07% | 0.07% | |
GBP | 0.28% | 0.06% | -0.02% | 0.19% | -0.23% | 0.13% | 0.18% | |
JPY | 0.24% | 0.09% | 0.02% | 0.16% | -0.26% | 0.04% | 0.24% | |
CAD | 0.06% | -0.09% | -0.19% | -0.16% | -0.45% | -0.06% | -0.01% | |
AUD | 0.50% | 0.29% | 0.23% | 0.26% | 0.45% | 0.36% | 0.44% | |
NZD | 0.04% | -0.07% | -0.13% | -0.04% | 0.06% | -0.36% | 0.05% | |
CHF | 0.10% | -0.07% | -0.18% | -0.24% | 0.00% | -0.44% | -0.05% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Đồng đô la Mỹ đang phải đối mặt với áp lực bán khi các bình luận từ các quan chức Cục Dự trữ Liên bang (Fed), bao gồm Chủ tịch Jerome Powell, đã chỉ ra những dấu hiệu rạn nứt trong thị trường lao động.
Vào thứ Ba, Powell của Fed đã cảnh báo về nhu cầu việc làm đang suy yếu, với tăng trưởng kinh tế vẫn cao hơn một chút so với dự kiến và lạm phát cao hơn nhiều so với mục tiêu 2% mong muốn.
"Dữ liệu hoạt động kinh tế đang gây bất ngờ theo chiều hướng tích cực, tạo ra một số căng thẳng với dữ liệu thị trường lao động," Powell nói.
Điều kiện thị trường lao động Mỹ đang xấu đi cũng đã củng cố cược cho việc cắt giảm lãi suất nhiều hơn từ Fed. Theo công cụ CME FedWatch, các nhà giao dịch thấy có 94,6% khả năng Fed sẽ giảm lãi suất 50 điểm cơ bản (bps) xuống 3,50%-3,75% trong phần còn lại của năm.
Trong khi đó, đồng đô la Canada giao dịch thấp hơn trước dữ liệu Doanh số Sản xuất của Canada cho tháng Tám, sẽ được công bố vào lúc 12:30 GMT.
USD/CAD giao dịch trong khoảng giao dịch của thứ Ba quanh mức 1,4040. Xu hướng ngắn hạn của cặp này vẫn tăng giá khi đường Trung bình Động Hàm mũ (EMA) 20 ngày dốc lên quanh mức 1,3950.
Chỉ báo sức mạnh tương đối (RSI) 14 ngày dao động trong phạm vi 60,00-80,00, cho thấy động lượng tăng giá mạnh mẽ.
Trong tương lai, một động thái tăng của cặp này trên mức cao ngày 14 tháng 10 là 1,4080 sẽ mở ra cánh cửa hướng tới mức thấp ngày 8 tháng 4 là 1,4144, tiếp theo là mức cao ngày 9 tháng 4 là 1,4274.
Ngược lại, tài sản có thể trượt xuống mức tròn 1,3600 và mức thấp ngày 16 tháng 6 là 1,3540 nếu nó phá vỡ dưới mức thấp ngày 7 tháng 8 là 1,3722.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.