Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Sáu, ngày 10 tháng 10:
Đồng Đô la Mỹ (USD) lùi bước sau đà tăng bốn ngày khi các thị trường chờ đợi dữ liệu Chỉ số Tâm lý Người tiêu dùng sơ bộ của Đại học Michigan (UoM) cho tháng 10. Trong nửa cuối của ngày, Cơ quan Thống kê Canada sẽ công bố dữ liệu việc làm cho tháng 9.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ mạnh nhất so với Đồng Yên Nhật.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | 1.17% | 1.03% | 2.18% | 0.44% | 0.35% | 1.09% | 1.13% | |
EUR | -1.17% | -0.24% | 0.94% | -0.76% | -0.84% | -0.13% | -0.07% | |
GBP | -1.03% | 0.24% | 1.26% | -0.52% | -0.60% | 0.12% | 0.17% | |
JPY | -2.18% | -0.94% | -1.26% | -1.67% | -1.85% | -1.16% | -1.08% | |
CAD | -0.44% | 0.76% | 0.52% | 1.67% | -0.05% | 0.64% | 0.69% | |
AUD | -0.35% | 0.84% | 0.60% | 1.85% | 0.05% | 0.72% | 0.78% | |
NZD | -1.09% | 0.13% | -0.12% | 1.16% | -0.64% | -0.72% | 0.05% | |
CHF | -1.13% | 0.07% | -0.17% | 1.08% | -0.69% | -0.78% | -0.05% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Các đảng Dân chủ và Cộng hòa đã không đạt được tiến bộ nào trong việc mở lại chính phủ sau khi dự luật tài trợ, một lần nữa, bị bác bỏ với tỷ lệ 54-45. Thượng viện sẽ trở lại vào thứ Ba và sẽ không có bất kỳ cuộc bỏ phiếu nào khác về dự luật cho đến lúc đó. Trong khi đó, New York Times đã báo cáo trước đó trong ngày rằng Cục Thống kê Lao động Mỹ (BLS) đang gọi lại một số nhân viên hạn chế từ chế độ nghỉ việc để hoàn thành báo cáo Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu dữ liệu lạm phát có được công bố vào ngày 15 tháng 10 như đã lên lịch ban đầu hay không. Sau khi tăng hơn 0,5% vào thứ Năm, Chỉ số USD vẫn dưới 99,50 trong buổi sáng châu Âu vào thứ Sáu, trong khi hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giao dịch cao hơn một chút.
Tỷ lệ thất nghiệp ở Canada dự kiến sẽ tăng lên 7,2% trong tháng 9 từ mức 7,1% trong tháng 8. USD/CAD giữ ổn định quanh mức 1,4000 trong buổi sáng châu Âu vào thứ Sáu sau khi đã chạm mức cao nhất kể từ tháng 4 trên 1,4030 vào đầu ngày.
USD/JPY giữ ổn định quanh mức 153,00 vào đầu thứ Sáu và đã tăng hơn 3,5% kể từ đầu tuần. Những lo ngại ngày càng tăng về một cuộc khủng hoảng chính trị ở Nhật Bản không cho phép đồng Yên Nhật có một đợt phục hồi quyết định. Lãnh đạo đảng Komeito Tetsuo Saito cho biết vào thứ Sáu rằng họ không thể đồng ý với Đảng Dân chủ Tự do (LDP) cầm quyền của Nhật Bản về các vấn đề liên quan đến tiền bạc, chính trị, đồng thời cho biết họ muốn thiết lập lại liên minh cầm quyền LDP-Komeito trong thời gian này.
EUR/USD đã mất hơn 0,5% vào thứ Năm và đóng cửa ở mức tiêu cực trong bốn ngày liên tiếp. Cặp tiền này điều chỉnh tăng vào đầu thứ Sáu nhưng vẫn dưới 1,1600.
GBP/USD ổn định gần 1,3300 trong phiên giao dịch châu Âu vào thứ Sáu sau khi giảm khoảng 0,75% vào thứ Năm.
Sự giảm bớt căng thẳng địa chính trị ở Trung Đông đã kích hoạt một đợt điều chỉnh sâu trong Vàng vào thứ Năm. Sau khi mất 1,6% và đóng cửa dưới 4.000$, XAU/USD gặp khó khăn trong việc thu thập động lực phục hồi và dao động trong một phạm vi chặt chẽ trên 3.980$.
Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Úc (RBA) Bullock cho biết vào thứ Sáu rằng lạm phát dịch vụ vẫn "một chút dai dẳng" và thêm rằng thị trường lao động gần đạt được sự cân bằng mặc dù vẫn còn hơi chặt chẽ. Sau khi mất 0,5% vào thứ Năm, AUD/USD bám giữ những mức tăng nhỏ hàng ngày trên 0,6560 trong buổi sáng châu Âu vào thứ Sáu.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.