Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Ba, ngày 7 tháng 10:
Đồng đô la Mỹ (USD) giữ vững vị thế trước các đồng tiền khác vào đầu ngày thứ Ba sau khi bắt đầu tuần với một tín hiệu tăng giá. Trong phiên giao dịch của Mỹ, một số nhà hoạch định chính sách từ Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) sẽ có bài phát biểu. Trong khi đó, các nhà đầu tư sẽ tiếp tục chú ý đến những diễn biến chính trị ở Pháp và Mỹ.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ mạnh nhất so với Đồng Yên Nhật.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | 0.31% | -0.03% | 0.78% | -0.01% | -0.20% | 0.04% | 0.07% | |
EUR | -0.31% | -0.45% | 0.39% | -0.36% | -0.54% | -0.31% | -0.27% | |
GBP | 0.03% | 0.45% | 0.95% | 0.09% | -0.09% | 0.14% | 0.18% | |
JPY | -0.78% | -0.39% | -0.95% | -0.75% | -1.03% | -0.81% | -0.76% | |
CAD | 0.01% | 0.36% | -0.09% | 0.75% | -0.14% | 0.05% | 0.08% | |
AUD | 0.20% | 0.54% | 0.09% | 1.03% | 0.14% | 0.24% | 0.27% | |
NZD | -0.04% | 0.31% | -0.14% | 0.81% | -0.05% | -0.24% | 0.04% | |
CHF | -0.07% | 0.27% | -0.18% | 0.76% | -0.08% | -0.27% | -0.04% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Thượng viện lại từ chối các đề xuất của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa nhằm khôi phục tài trợ cho chính phủ vào thứ Hai. Tổng thống Mỹ Donald Trump cảnh báo rằng một cuộc bỏ phiếu thất bại khác có thể dẫn đến việc sa thải trong lực lượng lao động liên bang nhưng thêm rằng họ đang thảo luận với các đảng Dân chủ về yêu cầu kéo dài trợ cấp Obamacare qua cuối năm. Chỉ số USD đã giảm từ mức cao 10 ngày gần 98,50 mà nó thiết lập vào cuối phiên giao dịch của Mỹ nhưng đóng cửa trong vùng tích cực vào thứ Hai. Chỉ số này đã tăng lực kéo trong buổi sáng châu Âu và lần cuối được thấy tăng 0,2% ở mức 98,30. Trong khi đó, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giảm từ 0,1% đến 0,2%.
Đồng Euro (EUR) đã chịu áp lực bán mạnh vào thứ Hai sau khi Thủ tướng mới được bổ nhiệm của Pháp, Sebastien Lecornu, đã thông báo từ chức. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron giờ đây sẽ hoặc bổ nhiệm một Thủ tướng mới hoặc giải tán quốc hội và kêu gọi một cuộc bầu cử quốc hội mới. Cũng có khả năng Macron sẽ từ chức. EUR/USD vẫn ở thế yếu trong phiên giao dịch châu Âu và giao dịch dưới mức 1,1700.
Sự lạc quan ngày càng tăng về việc chi tiêu chính phủ nhiều hơn và một chính sách tài khóa mở rộng hơn dưới Thủ tướng mới Sanae Takaichi đã nâng chỉ số Nikkei 225 của Nhật Bản lên mức cao kỷ lục mới vào thứ Ba. Sau khi tăng gần 2% vào thứ Hai, USD/JPY tiếp tục tăng cao hơn và lần cuối được thấy giao dịch trên mức 150,50. Bình luận về sự yếu kém của JPY, Bộ trưởng Tài chính Nhật Bản Katsunobu Kato cho biết vào thứ Ba rằng ông sẽ theo dõi chặt chẽ các biến động trên thị trường ngoại hối (FX), đồng thời nhấn mạnh rằng điều quan trọng là các đồng tiền phải di chuyển một cách ổn định phản ánh các yếu tố cơ bản.
GBP/USD đóng cửa hầu như không thay đổi vào thứ Hai khi Bảng Anh giữ vững vị thế trước USD, bằng cách thu hút dòng vốn ra khỏi EUR. Thực tế, cặp EUR/GBP đã giảm khoảng 0,3% trong ngày và chạm mức thấp nhất kể từ giữa tháng 9 gần 0,8670. Sáng thứ Ba, GBP/USD giảm nhẹ và giao dịch gần 1,3450.
Vàng đã tăng gần 2% vào thứ Hai và thiết lập mức cao kỷ lục mới trên 3.970$ trong phiên giao dịch châu Á vào thứ Ba. XAU/USD điều chỉnh giảm về mức 3.950$ trong phiên giao dịch châu Âu.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.