Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Năm, ngày 2 tháng 10:
Các nhà lập pháp Hoa Kỳ (US) đã không tìm được tiếng nói chung để chấm dứt tình trạng đóng cửa chính phủ vào thứ Tư, làm gia tăng sự không chắc chắn. Đồng đô la Mỹ (USD) gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nhu cầu vào sáng thứ Năm, với chỉ số USD giảm xuống trong ngày giao dịch thứ năm liên tiếp. Dữ liệu về số đơn xin trợ cấp thất nghiệp ban đầu và đơn đặt hàng nhà máy cho tháng Tám, dự kiến sẽ được công bố sau trong ngày, sẽ bị hoãn lại cho đến khi tài trợ chính phủ Hoa Kỳ được khôi phục. Thay vào đó, các nhà đầu tư sẽ chú ý đến báo cáo cắt giảm việc làm của Challenger cho tháng Chín.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đồng Yên Nhật.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -0.42% | -0.74% | -1.56% | -0.00% | -1.09% | -0.88% | -0.16% | |
EUR | 0.42% | -0.33% | -1.31% | 0.41% | -0.67% | -0.47% | 0.26% | |
GBP | 0.74% | 0.33% | -0.89% | 0.75% | -0.40% | -0.14% | 0.57% | |
JPY | 1.56% | 1.31% | 0.89% | 1.62% | 0.53% | 0.57% | 1.47% | |
CAD | 0.00% | -0.41% | -0.75% | -1.62% | -1.03% | -0.88% | -0.18% | |
AUD | 1.09% | 0.67% | 0.40% | -0.53% | 1.03% | 0.20% | 0.90% | |
NZD | 0.88% | 0.47% | 0.14% | -0.57% | 0.88% | -0.20% | 0.86% | |
CHF | 0.16% | -0.26% | -0.57% | -1.47% | 0.18% | -0.90% | -0.86% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Vào thứ Tư, Công ty Xử lý Dữ liệu Tự động (ADP) thông báo rằng bảng lương trong khu vực tư nhân đã giảm 32.000 trong tháng Chín. Ngoài ra, số liệu tháng Tám là 54.000 đã được điều chỉnh giảm xuống -3.000. Dữ liệu khác từ Hoa Kỳ cho thấy Chỉ số Nhà quản lý Mua hàng (PMI) ngành sản xuất của Viện Quản lý Cung ứng (ISM) đã tăng lên 49,1 trong tháng Chín từ 48,7 trong tháng Tám. Thành phần Chỉ số Giá cả đã trả trong khảo sát PMI giảm xuống 61,9 từ 63,7, trong khi Chỉ số Việc làm phục hồi nhẹ lên 45,3 từ 43,8. Trong phiên giao dịch châu Âu vào thứ Năm, chỉ số USD giảm xuống gần 97,50, trong khi hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giao dịch trái chiều.
Sau khi tăng lên mức cao nhất hàng tuần gần 1,1780 vào thứ Tư, EUR/USD đã mất lực kéo trong nửa sau của ngày và đóng cửa hầu như không thay đổi. Cặp tiền này giữ vững vị trí trong buổi sáng châu Âu và giao dịch quanh mức 1,1750. Eurostat sẽ công bố dữ liệu Tỷ lệ thất nghiệp cho tháng Tám sau trong phiên. Vào thứ Tư, dữ liệu từ khu vực Euro cho thấy chỉ số giá tiêu dùng hài hòa cốt lõi (HICP) đã tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước trong tháng Chín, phù hợp với kỳ vọng của thị trường.
GBP/USD tiếp tục tăng trưởng hàng tuần và kéo dài lên mức 1,3500 trong buổi sáng châu Âu vào thứ Năm.
Vàng đã gần chạm mức 3.900$ vào thứ Tư và thiết lập mức cao kỷ lục mới trước khi điều chỉnh giảm trong phiên giao dịch của Mỹ. XAU/USD vẫn tương đối yên tĩnh và dao động trên mức 3.850$.
USD/JPY đã giảm hơn 0,5% vào thứ Tư và đóng cửa ngày giao dịch thứ ba liên tiếp trong vùng tiêu cực. Cặp tiền này ổn định quanh mức 147,00 trong buổi sáng châu Âu vào thứ Năm. Đầu ngày thứ Sáu, dữ liệu thị trường lao động sẽ được đưa vào lịch kinh tế của Nhật Bản.
Trong thế giới thuật ngữ tài chính, hai thuật ngữ được sử dụng rộng rãi là “ưa rủi ro” và “ngại rủi ro” dùng để chỉ mức độ rủi ro mà các nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận trong giai đoạn được tham chiếu. Trong thị trường “ưa rủi ro”, các nhà đầu tư lạc quan về tương lai và sẵn sàng mua các tài sản rủi ro hơn. Trong thị trường “ngại rủi ro”, các nhà đầu tư bắt đầu “giao dịch an toàn” vì họ lo lắng về tương lai, và do đó mua các tài sản ít rủi ro hơn nhưng chắc chắn mang lại lợi nhuận hơn, ngay cả khi lợi nhuận tương đối khiêm tốn.
Thông thường, trong giai đoạn “ưa rủi ro”, thị trường chứng khoán sẽ tăng, hầu hết các mặt hàng – ngoại trừ Vàng – cũng sẽ tăng giá trị, vì chúng được hưởng lợi từ triển vọng tăng trưởng tích cực. Tiền tệ của các quốc gia là nước xuất khẩu hàng hóa lớn sẽ tăng giá do nhu cầu tăng và Tiền điện tử tăng. Trong thị trường “ngại rủi ro”, Trái phiếu tăng giá – đặc biệt là Trái phiếu chính phủ lớn – Vàng tỏa sáng và các loại tiền tệ trú ẩn an toàn như Yên Nhật, Franc Thụy Sĩ và Đô la Mỹ đều được hưởng lợi.
Đô la Úc (AUD), Đô la Canada (CAD), Đô la New Zealand (NZD) và các đồng tiền FX nhỏ như Rúp (RUB) và Rand Nam Phi (ZAR), tất cả đều có xu hướng tăng trên các thị trường “rủi ro”. Điều này là do nền kinh tế của các loại tiền tệ này phụ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu hàng hóa để tăng trưởng và giá hàng hóa có xu hướng tăng trong các giai đoạn rủi ro. Điều này là do các nhà đầu tư dự đoán nhu cầu về nguyên liệu thô sẽ tăng cao hơn trong tương lai do hoạt động kinh tế gia tăng.
Các loại tiền tệ chính có xu hướng tăng trong thời kỳ “rủi ro” là Đô la Mỹ (USD), Yên Nhật (JPY) và Franc Thụy Sĩ (CHF). Đô la Mỹ, vì đây là đồng tiền dự trữ của thế giới và vì trong thời kỳ khủng hoảng, các nhà đầu tư mua nợ chính phủ Hoa Kỳ, được coi là an toàn vì nền kinh tế lớn nhất thế giới khó có khả năng vỡ nợ. Đồng yên, do nhu cầu trái phiếu chính phủ Nhật Bản tăng, vì một tỷ lệ lớn được nắm giữ bởi các nhà đầu tư trong nước, những người không có khả năng bán tháo chúng - ngay cả trong khủng hoảng. Franc Thụy Sĩ, vì luật ngân hàng nghiêm ngặt của Thụy Sĩ cung cấp cho các nhà đầu tư sự bảo vệ vốn được tăng cường.