Cặp USD/CAD giao dịch thận trọng gần mức đáy ngày thứ Năm, khoảng 1,3835 trong phiên giao dịch châu Âu vào thứ Sáu. Cặp Loonie đã điều chỉnh từ mức cao gần đây là 1,3890 khi đồng đô la Mỹ (USD) phải đối mặt với áp lực bán trong bối cảnh rủi ro stagflation gia tăng tại Hoa Kỳ.
Kinh tế Mỹ đang đối mặt với rủi ro stagflation trong bối cảnh tăng trưởng việc làm yếu và áp lực lạm phát gia tăng. Bộ Lao động cho biết vào thứ Năm rằng số người nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu trong tuần kết thúc vào ngày 5 tháng 9 là 263K, mức cao nhất trong bốn năm qua.
Trong tháng Tám, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chính tăng với tốc độ nhanh hơn là 2,9% so với cùng kỳ năm trước, như dự kiến, so với 2,7% trong tháng Bảy. CPI chính theo tháng tăng 0,4%, nhanh hơn so với ước tính 0,3% và mức đọc trước đó là 0,2%.
Trong thời gian tới, Cục Dự trữ Liên bang (Fed) dự kiến sẽ thực hiện một hành động cân bằng tinh tế trong cuộc họp chính sách vào thứ Tư trong bối cảnh rủi ro stagflation gia tăng tại Mỹ. Trong khi đó, Fed chắc chắn sẽ cắt giảm lãi suất vào tuần tới, theo công cụ CME FedWatch.
Tại Canada, các nhà đầu tư sẽ tập trung vào dữ liệu CPI cho tháng Tám và cuộc họp chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương Canada (BoC), dự kiến diễn ra vào tuần tới.
USD/CAD tiếp tục phải đối mặt với áp lực trên mức trung bình động hàm mũ 200 ngày (EMA), giao dịch quanh mức 1,3847.
Chỉ báo sức mạnh tương đối (RSI) trong 14 ngày dao động trong khoảng 40,00-60,00, cho thấy xu hướng đi ngang.
Trong thời gian tới, tài sản này có thể giảm về mức tròn 1,3600 và mức đáy ngày 16 tháng 6 là 1,3540 nếu nó phá vỡ dưới mức đáy ngày 7 tháng 8 là 1,3722.
Ngược lại, một động thái phục hồi của cặp tiền trên mức cao ngày 22 tháng 8 là 1,3925 sẽ mở ra cơ hội hướng tới mức cao ngày 15 tháng 5 là 1,4000, tiếp theo là mức đáy ngày 9 tháng 4 là 1,4075.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.