Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Năm, ngày 17 tháng 7:
Sau hành động biến động vào thứ Tư, đồng đô la Mỹ (USD) đã tăng cường sức mạnh so với các đối thủ của mình vào đầu ngày thứ Năm. Trong nửa sau của ngày, lịch kinh tế Mỹ sẽ có dữ liệu về Tuyên bố thất nghiệp ban đầu hàng tuần và báo cáo Doanh số bán lẻ tháng 6. Sau đó trong phiên giao dịch tại Mỹ, một số nhà hoạch định chính sách của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ có bài phát biểu.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ mạnh nhất so với Đô la Úc.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | 0.67% | 0.80% | 1.01% | 0.31% | 1.53% | 1.47% | 0.81% | |
EUR | -0.67% | 0.10% | 0.34% | -0.38% | 0.82% | 0.78% | 0.12% | |
GBP | -0.80% | -0.10% | 0.18% | -0.47% | 0.73% | 0.68% | 0.17% | |
JPY | -1.01% | -0.34% | -0.18% | -0.59% | 0.50% | 0.49% | -0.17% | |
CAD | -0.31% | 0.38% | 0.47% | 0.59% | 1.21% | 1.16% | 0.51% | |
AUD | -1.53% | -0.82% | -0.73% | -0.50% | -1.21% | -0.07% | -0.70% | |
NZD | -1.47% | -0.78% | -0.68% | -0.49% | -1.16% | 0.07% | -0.65% | |
CHF | -0.81% | -0.12% | -0.17% | 0.17% | -0.51% | 0.70% | 0.65% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Trích dẫn từ nhiều nguồn có kiến thức trực tiếp về vấn đề này, CBS News đã báo cáo vào thứ Tư rằng Tổng thống Hoa Kỳ (Mỹ) Donald Trump đã hỏi các nhà lập pháp Đảng Cộng hòa liệu ông có nên sa thải Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang (Fed) Jerome Powell hay không. Với phản ứng ngay lập tức đối với tiêu đề này, USD đã chịu áp lực giảm giá mới và chỉ số USD đóng cửa trong sắc đỏ, chấm dứt chuỗi bốn ngày tăng liên tiếp. Sau đó trong ngày, Trump đã lưu ý rằng họ rất gần với một thỏa thuận thương mại với Ấn Độ và thêm rằng một thỏa thuận cũng có thể được đạt được với châu Âu. Vào đầu ngày thứ Năm, chỉ số USD tăng khoảng 0,5% trong ngày lên khoảng 98,70 và hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giao dịch trái chiều.
Văn phòng Thống kê Quốc gia Vương quốc Anh (ONS) đã báo cáo vào buổi sáng thứ Năm rằng Tỷ lệ thất nghiệp ILO đã tăng lên 4,7% trong ba tháng tính đến tháng 5 từ mức 4,6%. Các chi tiết khác của báo cáo cho thấy Thay đổi việc làm đã tăng 134.000 trong thời gian này, so với mức tăng 89.000 được ghi nhận trước đó. Sau một phiên giao dịch châu Á yên tĩnh, GBP/USD giảm nhẹ sau báo cáo này và giao dịch dưới mức 1,3400.
EUR/USD vẫn ở thế yếu sau khi ghi nhận mức tăng khiêm tốn vào thứ Tư và dao động dưới mức 1,1600. Eurostat sẽ công bố các điều chỉnh dữ liệu Chỉ số Giá tiêu dùng đã cân đối tháng 6 sau đó trong phiên.
Dữ liệu từ Úc cho thấy rằng vào đầu ngày, Tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên 4,3% trong tháng 6 từ mức 4,1%. Việc làm toàn thời gian đã giảm 38,2K trong thời gian này.AUD/USD vẫn chịu áp lực bán nặng nề sau báo cáo việc làm không đạt kỳ vọng và giao dịch ở mức thấp nhất trong ba tuần gần 0,6460, giảm khoảng 1% trong ngày.
Sau khi ghi nhận mức lỗ lớn vào thứ Tư, USD/JPY đã đảo chiều và tăng hơn 0,5% trong ngày lên khoảng 148,70 vào thứ Năm. Thư ký Phó Chánh văn phòng Nội các Nhật Bản Kazuhiko Aoki đã nhắc lại rằng ông lo ngại về các biến động trên thị trường ngoại hối, bao gồm cả các động thái đầu cơ.
Vàng được hưởng lợi từ việc lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ giảm và đóng cửa trong vùng tích cực vào thứ Tư. XAU/USD gặp khó khăn trong việc giữ vững vị trí vào đầu ngày thứ Năm và giao dịch dưới mức 3.330$.
Điều kiện thị trường lao động là yếu tố chính để đánh giá sức khỏe của nền kinh tế và do đó là động lực chính cho việc định giá tiền tệ. Việc làm cao hoặc thất nghiệp thấp có tác động tích cực đến chi tiêu của người tiêu dùng và do đó là tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy giá trị của đồng tiền địa phương. Hơn nữa, thị trường lao động rất chặt chẽ - tình trạng thiếu hụt lao động để lấp đầy các vị trí tuyển dụng - cũng có thể có tác động đến mức lạm phát và do đó là chính sách tiền tệ vì nguồn cung lao động thấp và nhu cầu cao dẫn đến mức lương cao hơn.
Tốc độ tăng lương trong một nền kinh tế là yếu tố then chốt đối với các nhà hoạch định chính sách. Tăng trưởng lương cao có nghĩa là các hộ gia đình có nhiều tiền hơn để chi tiêu, thường dẫn đến tăng giá hàng tiêu dùng. Ngược lại với các nguồn lạm phát biến động hơn như giá năng lượng, tăng trưởng lương được coi là thành phần chính của lạm phát cơ bản và dai dẳng vì việc tăng lương không có khả năng bị đảo ngược. Các ngân hàng trung ương trên toàn thế giới chú ý chặt chẽ đến dữ liệu tăng trưởng lương khi quyết định chính sách tiền tệ.
Trọng số mà mỗi ngân hàng trung ương phân bổ cho các điều kiện thị trường lao động phụ thuộc vào mục tiêu của họ. Một số ngân hàng trung ương có nhiệm vụ rõ ràng liên quan đến thị trường lao động ngoài việc kiểm soát mức lạm phát. Ví dụ, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) có nhiệm vụ kép là thúc đẩy việc làm tối đa và ổn định giá cả. Trong khi đó, nhiệm vụ duy nhất của Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) là kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, và bất chấp bất kỳ nhiệm vụ nào họ có, các điều kiện thị trường lao động là một yếu tố quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách vì tầm quan trọng của dữ liệu như một thước đo sức khỏe của nền kinh tế và mối quan hệ trực tiếp của chúng với lạm phát.