Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Tư, ngày 16 tháng 7:
Đồng bảng Anh lấy lại sức hút vào buổi sáng châu Âu vào thứ Tư và Chỉ số Đô la Mỹ (USD) rút lui khỏi mức cao nhiều tuần mà nó đã thiết lập vào thứ Ba. Lịch kinh tế của Mỹ sẽ có dữ liệu lạm phát của nhà sản xuất cho tháng 6 cùng với số liệu Sản xuất Công nghiệp và một số nhà hoạch định chính sách của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ có bài phát biểu vào cuối ngày. Cuối cùng, Fed sẽ phát hành Báo cáo khảo sát ý kiến của mình.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ mạnh nhất so với Đồng Yên Nhật.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | 0.37% | 0.62% | 0.97% | 0.06% | 0.57% | 0.84% | 0.37% | |
EUR | -0.37% | 0.23% | 0.59% | -0.32% | 0.19% | 0.46% | -0.01% | |
GBP | -0.62% | -0.23% | 0.30% | -0.55% | -0.04% | 0.23% | -0.10% | |
JPY | -0.97% | -0.59% | -0.30% | -0.77% | -0.39% | -0.06% | -0.53% | |
CAD | -0.06% | 0.32% | 0.55% | 0.77% | 0.50% | 0.78% | 0.31% | |
AUD | -0.57% | -0.19% | 0.04% | 0.39% | -0.50% | 0.25% | -0.19% | |
NZD | -0.84% | -0.46% | -0.23% | 0.06% | -0.78% | -0.25% | -0.48% | |
CHF | -0.37% | 0.00% | 0.10% | 0.53% | -0.31% | 0.19% | 0.48% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Văn phòng Thống kê Quốc gia của Vương quốc Anh đã thông báo vào sáng sớm thứ Tư rằng lạm phát hàng năm ở Vương quốc Anh, được đo bằng sự thay đổi của Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), đã tăng lên 3,6% trong tháng 6 từ 3,4% trong tháng 5. Đọc số này cao hơn kỳ vọng của thị trường là 3,4%. Trên cơ sở hàng năm, CPI cơ bản đã tăng 3,7%, so với ước tính của các nhà phân tích là 3,5%. Sau khi đóng cửa hai ngày đầu tuần trong vùng tiêu cực sâu, GBP/USD đã phục hồi và giao dịch tăng nhẹ trong ngày trên mức 1,3400 vào buổi sáng châu Âu.
Vào thứ Ba, dữ liệu từ Mỹ cho thấy lạm phát CPI hàng năm đã tăng lên 2,7% trong tháng 6 từ 2,4% trong tháng 5. Trong giai đoạn này, CPI cơ bản đã tăng 2,9% sau khi ghi nhận mức tăng 2,8% trong tháng trước. Chỉ số USD đã thu thập đà tăng và tăng lên mức cao nhất trong hơn ba tuần gần 98,70. Đầu thứ Tư, Chỉ số USD điều chỉnh giảm và dao động quanh mức 98,50. Tổng thống Mỹ Donald Trump đã nói vào tối thứ Ba rằng các bức thư thông báo cho các quốc gia nhỏ hơn về mức thuế quan của Mỹ sẽ được gửi đi sớm và giải thích rằng chính quyền của ông có thể sẽ đặt mức thuế quan "hơi trên 10%" cho những quốc gia đó. Sau hành động trái chiều thấy được trên Phố Wall vào thứ Ba, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giảm khoảng 0,3% vào đầu thứ Tư.
Sau hành động ảm đạm vào thứ Hai, EUR/USD đã quay đầu và giảm xuống dưới 1,1600 lần đầu tiên kể từ ngày 24 tháng 6. Cặp tiền này điều chỉnh tăng trong buổi sáng châu Âu vào thứ Tư và giao dịch gần 1,1620. Eurostat sẽ công bố dữ liệu Cán cân Thương mại cho tháng 5 vào cuối phiên.
Sau khi mất khoảng 0,5% vào thứ Ba, AUD/USD giữ vững vị thế và giao dịch thoải mái trên mức 0,6500. Trong phiên giao dịch châu Á vào thứ Năm, dữ liệu thị trường lao động của Úc cho tháng 6 sẽ được các nhà tham gia thị trường theo dõi chặt chẽ.
Sau đợt tăng giá vào thứ Ba, USD/JPY đã tăng lên mức cao nhất kể từ đầu tháng 4 trên 149,00 trong phiên giao dịch châu Á vào thứ Tư. Cặp tiền này giảm nhẹ trong buổi sáng châu Âu và giao dịch trên mức 148,50.
Vàng đóng cửa trong vùng tiêu cực trong ngày thứ hai liên tiếp vào thứ Ba. Đầu thứ Tư, XAU/USD phục hồi và giao dịch ở mức khoảng 3.340$.
Lạm phát đo lường mức tăng giá của một rổ hàng hóa và dịch vụ tiêu biểu. Lạm phát tiêu đề thường được thể hiện dưới dạng phần trăm thay đổi theo tháng (hàng tháng) và theo năm (hàng năm). Lạm phát cốt lõi không bao gồm các yếu tố dễ biến động hơn như thực phẩm và nhiên liệu có thể dao động do các yếu tố địa chính trị và theo mùa. Lạm phát cốt lõi là con số mà các nhà kinh tế tập trung vào và là mức mà các ngân hàng trung ương nhắm tới, được giao nhiệm vụ giữ lạm phát ở mức có thể kiểm soát được, thường là khoảng 2%.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo lường sự thay đổi giá của một rổ hàng hóa và dịch vụ trong một khoảng thời gian. Chỉ số này thường được thể hiện dưới dạng phần trăm thay đổi theo tháng (hàng tháng) và theo năm (hàng năm). CPI cơ bản là con số mà các ngân hàng trung ương nhắm đến vì nó không bao gồm các đầu vào thực phẩm và nhiên liệu biến động. Khi CPI cơ bản tăng trên 2%, thường dẫn đến lãi suất cao hơn và ngược lại khi giảm xuống dưới 2%. Vì lãi suất cao hơn là tích cực đối với một loại tiền tệ, nên lạm phát cao hơn thường dẫn đến một loại tiền tệ mạnh hơn. Điều ngược lại xảy ra khi lạm phát giảm.
Mặc dù có vẻ trái ngược với thông thường, lạm phát cao ở một quốc gia sẽ đẩy giá trị đồng tiền của quốc gia đó lên và ngược lại đối với lạm phát thấp hơn. Điều này là do ngân hàng trung ương thường sẽ tăng lãi suất để chống lại lạm phát cao hơn, điều này thu hút nhiều dòng vốn toàn cầu hơn từ các nhà đầu tư đang tìm kiếm một nơi sinh lợi để gửi tiền của họ.
Trước đây, Vàng là tài sản mà các nhà đầu tư hướng đến trong thời kỳ lạm phát cao vì nó bảo toàn giá trị của nó, và trong khi các nhà đầu tư thường vẫn mua Vàng vì tính chất trú ẩn an toàn của nó trong thời kỳ thị trường biến động cực độ, thì hầu hết thời gian không phải vậy. Điều này là do khi lạm phát cao, các ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi suất để chống lại lạm phát. Lãi suất cao hơn là tiêu cực đối với Vàng vì chúng làm tăng chi phí cơ hội khi nắm giữ Vàng so với tài sản sinh lãi hoặc gửi tiền vào tài khoản tiền gửi bằng tiền mặt. Mặt khác, lạm phát thấp hơn có xu hướng tích cực đối với Vàng vì nó làm giảm lãi suất, khiến kim loại sáng này trở thành một lựa chọn đầu tư khả thi hơn.