Cặp USD/CAD giao dịch thấp hơn gần 1,3570 trong phiên châu Âu vào thứ Sáu, nhằm mục đích quay lại mức thấp nhất trong tám tháng khoảng 1,3540. Cặp Loonie đối mặt với áp lực bán khi đồng đô la Mỹ (USD) trả lại toàn bộ lợi nhuận của mình sau dữ liệu Bảng lương phi nông nghiệp (NFP) của Mỹ cho tháng Sáu, được công bố vào thứ Năm.
Chỉ số đô la Mỹ (DXY), theo dõi giá trị của đồng bạc xanh so với sáu loại tiền tệ chính, giảm xuống dưới 97,00.
Theo báo cáo NFP, sự tuyển dụng mạnh mẽ của khu vực công đã dẫn đến sự gia tăng mạnh mẽ trong dữ liệu việc làm tổng thể, trong khi tuyển dụng khu vực tư nhân đã giảm đáng kể. Tổng số lao động được thêm vào trong tháng Sáu là 147K, cao hơn so với ước tính 110K. Tuy nhiên, số người tìm việc được tuyển dụng bởi các nhà tuyển dụng tư nhân là 74K, gần như bằng một nửa so với 137K ghi nhận trong tháng Năm, và thấp hơn nhiều so với mức trung bình ba tháng là 115K.
Mặc dù các nhà đầu tư đã hỗ trợ đồng đô la Canada (CAD) so với đồng đô la Mỹ, nhưng nó đang hoạt động kém hơn so với các đồng tiền khác trong bối cảnh không chắc chắn xung quanh thời hạn thuế quan vào ngày 9 tháng Bảy. Nền kinh tế Canada vẫn chưa hoàn tất bất kỳ thỏa thuận thương mại nào với Mỹ và có khả năng sẽ phải đối mặt với thuế quan cao hơn từ tuần tới.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Canada (CAD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê hôm nay. Đô la Canada là yếu nhất so với Đồng Yên Nhật.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -0.19% | -0.16% | -0.39% | -0.09% | 0.08% | -0.04% | -0.32% | |
EUR | 0.19% | 0.06% | -0.17% | 0.14% | 0.16% | 0.15% | -0.09% | |
GBP | 0.16% | -0.06% | -0.26% | 0.07% | 0.11% | 0.09% | -0.15% | |
JPY | 0.39% | 0.17% | 0.26% | 0.32% | 0.34% | 0.29% | -0.02% | |
CAD | 0.09% | -0.14% | -0.07% | -0.32% | 0.01% | 0.01% | -0.22% | |
AUD | -0.08% | -0.16% | -0.11% | -0.34% | -0.01% | -0.06% | -0.26% | |
NZD | 0.04% | -0.15% | -0.09% | -0.29% | -0.01% | 0.06% | -0.23% | |
CHF | 0.32% | 0.09% | 0.15% | 0.02% | 0.22% | 0.26% | 0.23% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Canada từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đô la Mỹ, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho CAD (đồng tiền cơ sở)/USD (đồng tiền định giá).
USD/CAD tiếp tục đối mặt với áp lực bán ở mọi nỗ lực vượt qua Đường trung bình động hàm mũ (EMA) 20 ngày, cho thấy xu hướng "Bán khi tăng". Chỉ báo sức mạnh tương đối (RSI) 14 ngày trượt xuống dưới 40,00, cho thấy rằng một đà giảm mới đã được kích hoạt.
Trong tương lai, tài sản có thể trượt xuống mức tâm lý 1,3500 và mức thấp ngày 25 tháng Chín là 1,3420 nếu nó phá vỡ dưới mức thấp ngày 16 tháng Sáu là 1,3540.
Ngược lại, một động thái tăng của cặp này trên mức cao ngày 29 tháng Năm là 1,3820 sẽ mở ra cánh cửa hướng tới mức cao ngày 21 tháng Năm là 1,3920, tiếp theo là mức cao ngày 15 tháng Năm là 1,4000.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.