Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Tư, ngày 21 tháng 5:
Đồng bảng Anh (GBP) tập hợp sức mạnh trước các đối thủ vào đầu ngày thứ Tư sau khi công bố dữ liệu lạm phát tháng 4 từ Anh, trong khi đồng đô la Mỹ (USD) tiếp tục suy yếu do sự không chắc chắn trong thương mại và những rắc rối chính trị. Lịch kinh tế sẽ không có các dữ liệu quan trọng vào giữa tuần, cho phép các nhà đầu tư tập trung vào địa chính trị và những bình luận từ các ngân hàng trung ương.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đồng Franc Thụy Sĩ.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -1.36% | -1.27% | -1.22% | -0.64% | -0.80% | -1.14% | -1.78% | |
EUR | 1.36% | 0.07% | 0.20% | 0.79% | 0.70% | 0.29% | -0.41% | |
GBP | 1.27% | -0.07% | -0.17% | 0.71% | 0.62% | 0.21% | -0.49% | |
JPY | 1.22% | -0.20% | 0.17% | 0.59% | 0.59% | 0.28% | -0.51% | |
CAD | 0.64% | -0.79% | -0.71% | -0.59% | -0.14% | -0.50% | -1.20% | |
AUD | 0.80% | -0.70% | -0.62% | -0.59% | 0.14% | -0.41% | -1.09% | |
NZD | 1.14% | -0.29% | -0.21% | -0.28% | 0.50% | 0.41% | -0.70% | |
CHF | 1.78% | 0.41% | 0.49% | 0.51% | 1.20% | 1.09% | 0.70% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh (ONS) báo cáo vào buổi sáng châu Âu rằng lạm phát hàng năm ở Anh, được đo bằng sự thay đổi trong Chỉ số giá tiêu dùng, đã tăng lên 3,5% trong tháng 4 từ mức 2,6% trong tháng 3. Chỉ số này cao hơn dự báo của thị trường là 3,3%. Về mặt hàng tháng, CPI đã tăng 1,2% sau khi tăng 0,3% trước đó. Cuối cùng, CPI cơ bản, không bao gồm giá thực phẩm và năng lượng dễ biến động, đã tăng 3,8% hàng năm, vượt ước tính 3,6% của các nhà phân tích. GBP/USD đã thu thập đà tăng sau dữ liệu lạm phát nóng của Anh và tiến lên mức cao nhất kể từ tháng 2 năm 2022 trên 1,3450.
Bộ Thương mại Trung Quốc cho biết vào đầu ngày thứ Tư rằng các biện pháp của Mỹ đối với các chip tiên tiến của Trung Quốc là "điển hình của sự bắt nạt đơn phương và chủ nghĩa bảo hộ," đồng thời cho rằng Mỹ vi phạm luật pháp quốc tế bằng cách lạm dụng kiểm soát xuất khẩu để kiềm chế và đàn áp Trung Quốc. Trong khi đó, các đảng viên Cộng hòa tại Hạ viện đang gặp khó khăn trong việc thông qua dự luật thuế của Tổng thống Donald Trump, có thể làm tăng khoảng 3,8 nghìn tỷ đô la vào nợ quốc gia, theo phân tích được công bố vào thứ Ba bởi Văn phòng Ngân sách Quốc hội (CBO). Chỉ số USD tiếp tục chịu áp lực giảm giá vào thứ Tư và giao dịch gần 99,50, giảm khoảng 0,5% trong ngày, trong khi hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giảm từ 0,4% đến 0,6% sau khi các chỉ số chính của Phố Wall đóng cửa trong vùng tiêu cực vào thứ Ba.
EUR/USD tiếp tục tăng trưởng hàng tuần và tăng lên khoảng 1,1350 trong phiên giao dịch châu Âu đầu ngày. Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) sẽ công bố Báo cáo Ổn định Tài chính của mình vào cuối ngày.
Dữ liệu từ Nhật Bản cho thấy trong phiên giao dịch châu Á đầu ngày rằng Xuất khẩu đã tăng 2% hàng năm trong tháng 4, như dự kiến. Trong cùng kỳ, Nhập khẩu giảm 2,2%. USD/JPY tiếp tục suy yếu vào thứ Tư và giảm xuống khoảng 143,50.
Vàng được hưởng lợi từ bầu không khí thị trường tránh rủi ro và tăng gần 2% vào thứ Ba. XAU/USD duy trì đà tăng và giao dịch thoải mái trên 3.300$, tăng khoảng 1% trong ngày.
USD/CAD tiếp tục giảm và giao dịch dưới 1,3900 sau khi đóng cửa hai ngày đầu tuần trong sắc đỏ. Cơ quan Thống kê Canada báo cáo vào thứ Ba rằng lạm phát CPI hàng năm đã giảm xuống 1,7% trong tháng 4 từ 2,3% trong tháng 3.
Lạm phát đo lường mức tăng giá của một rổ hàng hóa và dịch vụ tiêu biểu. Lạm phát tiêu đề thường được thể hiện dưới dạng phần trăm thay đổi theo tháng (hàng tháng) và theo năm (hàng năm). Lạm phát cốt lõi không bao gồm các yếu tố dễ biến động hơn như thực phẩm và nhiên liệu có thể dao động do các yếu tố địa chính trị và theo mùa. Lạm phát cốt lõi là con số mà các nhà kinh tế tập trung vào và là mức mà các ngân hàng trung ương nhắm tới, được giao nhiệm vụ giữ lạm phát ở mức có thể kiểm soát được, thường là khoảng 2%.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo lường sự thay đổi giá của một rổ hàng hóa và dịch vụ trong một khoảng thời gian. Chỉ số này thường được thể hiện dưới dạng phần trăm thay đổi theo tháng (hàng tháng) và theo năm (hàng năm). CPI cơ bản là con số mà các ngân hàng trung ương nhắm đến vì nó không bao gồm các đầu vào thực phẩm và nhiên liệu biến động. Khi CPI cơ bản tăng trên 2%, thường dẫn đến lãi suất cao hơn và ngược lại khi giảm xuống dưới 2%. Vì lãi suất cao hơn là tích cực đối với một loại tiền tệ, nên lạm phát cao hơn thường dẫn đến một loại tiền tệ mạnh hơn. Điều ngược lại xảy ra khi lạm phát giảm.
Mặc dù có vẻ trái ngược với thông thường, lạm phát cao ở một quốc gia sẽ đẩy giá trị đồng tiền của quốc gia đó lên và ngược lại đối với lạm phát thấp hơn. Điều này là do ngân hàng trung ương thường sẽ tăng lãi suất để chống lại lạm phát cao hơn, điều này thu hút nhiều dòng vốn toàn cầu hơn từ các nhà đầu tư đang tìm kiếm một nơi sinh lợi để gửi tiền của họ.
Trước đây, Vàng là tài sản mà các nhà đầu tư hướng đến trong thời kỳ lạm phát cao vì nó bảo toàn giá trị của nó, và trong khi các nhà đầu tư thường vẫn mua Vàng vì tính chất trú ẩn an toàn của nó trong thời kỳ thị trường biến động cực độ, thì hầu hết thời gian không phải vậy. Điều này là do khi lạm phát cao, các ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi suất để chống lại lạm phát. Lãi suất cao hơn là tiêu cực đối với Vàng vì chúng làm tăng chi phí cơ hội khi nắm giữ Vàng so với tài sản sinh lãi hoặc gửi tiền vào tài khoản tiền gửi bằng tiền mặt. Mặt khác, lạm phát thấp hơn có xu hướng tích cực đối với Vàng vì nó làm giảm lãi suất, khiến kim loại sáng này trở thành một lựa chọn đầu tư khả thi hơn.