Đây là những gì bạn cần biết vào thứ Sáu, ngày 16 tháng 5:
Thị trường có thái độ thận trọng vào đầu ngày thứ Sáu và đồng đô la Mỹ (USD) gặp khó khăn trong việc kiên cường trước các đối thủ lớn. Dữ liệu về Lượng nhà khởi công xây dựng và Giấy phép xây dựng tháng 4 sẽ được đưa vào lịch kinh tế của Mỹ. Ngoài ra, Đại học Michigan sẽ công bố Chỉ số tâm lý người tiêu dùng sơ bộ cho tháng 5.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ mạnh nhất so với Đô la Canada.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | 0.37% | -0.04% | -0.67% | 0.40% | -0.16% | 0.21% | -0.02% | |
EUR | -0.37% | -0.28% | -0.47% | 0.51% | 0.08% | 0.33% | 0.09% | |
GBP | 0.04% | 0.28% | -0.04% | 0.81% | 0.38% | 0.53% | 0.37% | |
JPY | 0.67% | 0.47% | 0.04% | 1.06% | -0.13% | 0.02% | 0.41% | |
CAD | -0.40% | -0.51% | -0.81% | -1.06% | -0.30% | -0.19% | -0.42% | |
AUD | 0.16% | -0.08% | -0.38% | 0.13% | 0.30% | 0.14% | -0.03% | |
NZD | -0.21% | -0.33% | -0.53% | -0.02% | 0.19% | -0.14% | -0.26% | |
CHF | 0.02% | -0.09% | -0.37% | -0.41% | 0.42% | 0.03% | 0.26% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Chỉ số USD đã giảm nhẹ trong giờ giao dịch của Mỹ vào thứ Năm sau khi Cục Thống kê Lao động báo cáo rằng Chỉ số giá sản xuất đã tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước trong tháng 4, so với mức tăng 2,7% được ghi nhận trong tháng 3. Dữ liệu khác từ Mỹ cho thấy Doanh số bán lẻ tăng 0,1% hàng tháng trong tháng 4, trong khi số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu hàng tuần đạt 229.000, khớp với mức đọc trước đó và kỳ vọng của thị trường. Sau khi mất 0,2% vào thứ Năm, Chỉ số USD vẫn ở thế yếu và giảm về phía 100,50 vào buổi sáng thứ Sáu tại châu Âu. Trong khi đó, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán của Mỹ giao dịch trái chiều.
Dữ liệu từ Nhật Bản cho thấy Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã giảm với tỷ lệ hàng năm là 0,7% trong quý đầu tiên. Số liệu này tệ hơn so với dự báo của các nhà phân tích về mức giảm 0,2%. Sau khi đóng cửa trong vùng tiêu cực trong ba ngày liên tiếp, USD/JPY vẫn chịu áp lực giảm giá và giao dịch ở mức thấp nhất trong tuần, chỉ hơi trên 145,00.
Vàng đã có một đợt phục hồi quyết định trong nửa sau của ngày thứ Năm và tăng gần 2%. XAU/USD đảo chiều vào thứ Sáu và giảm về phía 3.200$.
EUR/USD vẫn tương đối yên tĩnh và tiếp tục dao động lên xuống trong một kênh hẹp gần 1,1200 vào buổi sáng thứ Sáu tại châu Âu. Eurostat sẽ công bố dữ liệu Cán cân thương mại cho tháng 3.
GBP/USD đã tăng hơn 0,3% vào thứ Năm và xóa bỏ những khoản lỗ của thứ Tư. Cặp này dường như đã bước vào giai đoạn hợp nhất quanh mức 1,3300.
Ngân hàng Dự trữ New Zealand báo cáo rằng Kỳ vọng lạm phát đã tăng lên 2,29% cho quý hai từ mức 2,06% của quý trước. NZD/USD tăng hơn 0,5% vào thứ Sáu và giao dịch trên 0,5900.
Doanh số sản xuất ở Canada đã giảm 1,4% hàng tháng trong tháng 3, Cơ quan Thống kê Canada báo cáo vào thứ Năm. USD/CAD giao dịch giảm nhẹ trong ngày gần 1,3950 sau khi ghi nhận những khoản lỗ nhỏ vào thứ Năm.
Trong thế giới thuật ngữ tài chính, hai thuật ngữ được sử dụng rộng rãi là “ưa rủi ro” và “ngại rủi ro” dùng để chỉ mức độ rủi ro mà các nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận trong giai đoạn được tham chiếu. Trong thị trường “ưa rủi ro”, các nhà đầu tư lạc quan về tương lai và sẵn sàng mua các tài sản rủi ro hơn. Trong thị trường “ngại rủi ro”, các nhà đầu tư bắt đầu “giao dịch an toàn” vì họ lo lắng về tương lai, và do đó mua các tài sản ít rủi ro hơn nhưng chắc chắn mang lại lợi nhuận hơn, ngay cả khi lợi nhuận tương đối khiêm tốn.
Thông thường, trong giai đoạn “ưa rủi ro”, thị trường chứng khoán sẽ tăng, hầu hết các mặt hàng – ngoại trừ Vàng – cũng sẽ tăng giá trị, vì chúng được hưởng lợi từ triển vọng tăng trưởng tích cực. Tiền tệ của các quốc gia là nước xuất khẩu hàng hóa lớn sẽ tăng giá do nhu cầu tăng và Tiền điện tử tăng. Trong thị trường “ngại rủi ro”, Trái phiếu tăng giá – đặc biệt là Trái phiếu chính phủ lớn – Vàng tỏa sáng và các loại tiền tệ trú ẩn an toàn như Yên Nhật, Franc Thụy Sĩ và Đô la Mỹ đều được hưởng lợi.
Đô la Úc (AUD), Đô la Canada (CAD), Đô la New Zealand (NZD) và các đồng tiền FX nhỏ như Rúp (RUB) và Rand Nam Phi (ZAR), tất cả đều có xu hướng tăng trên các thị trường “rủi ro”. Điều này là do nền kinh tế của các loại tiền tệ này phụ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu hàng hóa để tăng trưởng và giá hàng hóa có xu hướng tăng trong các giai đoạn rủi ro. Điều này là do các nhà đầu tư dự đoán nhu cầu về nguyên liệu thô sẽ tăng cao hơn trong tương lai do hoạt động kinh tế gia tăng.
Các loại tiền tệ chính có xu hướng tăng trong thời kỳ “rủi ro” là Đô la Mỹ (USD), Yên Nhật (JPY) và Franc Thụy Sĩ (CHF). Đô la Mỹ, vì đây là đồng tiền dự trữ của thế giới và vì trong thời kỳ khủng hoảng, các nhà đầu tư mua nợ chính phủ Hoa Kỳ, được coi là an toàn vì nền kinh tế lớn nhất thế giới khó có khả năng vỡ nợ. Đồng yên, do nhu cầu trái phiếu chính phủ Nhật Bản tăng, vì một tỷ lệ lớn được nắm giữ bởi các nhà đầu tư trong nước, những người không có khả năng bán tháo chúng - ngay cả trong khủng hoảng. Franc Thụy Sĩ, vì luật ngân hàng nghiêm ngặt của Thụy Sĩ cung cấp cho các nhà đầu tư sự bảo vệ vốn được tăng cường.