Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Tư, ngày 17 tháng 12:
Đồng đô la Mỹ (USD) giữ vững vị thế vào đầu ngày thứ Tư khi các thị trường đánh giá lại triển vọng chính sách của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sau dữ liệu việc làm. Trong phiên giao dịch châu Âu đầu ngày, dữ liệu lạm phát tháng 11 từ Vương quốc Anh sẽ được những người tham gia thị trường theo dõi chặt chẽ trước các thông báo chính sách của Ngân hàng trung ương Anh (BoE) dự kiến vào thứ Năm.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đồng Yên Nhật.
| USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| USD | 0.08% | -0.06% | -0.45% | 0.03% | 0.43% | 0.40% | 0.05% | |
| EUR | -0.08% | -0.14% | -0.55% | -0.06% | 0.37% | 0.32% | -0.02% | |
| GBP | 0.06% | 0.14% | -0.27% | 0.08% | 0.51% | 0.46% | 0.09% | |
| JPY | 0.45% | 0.55% | 0.27% | 0.49% | 0.89% | 0.84% | 0.70% | |
| CAD | -0.03% | 0.06% | -0.08% | -0.49% | 0.41% | 0.38% | 0.13% | |
| AUD | -0.43% | -0.37% | -0.51% | -0.89% | -0.41% | -0.05% | -0.40% | |
| NZD | -0.40% | -0.32% | -0.46% | -0.84% | -0.38% | 0.05% | -0.37% | |
| CHF | -0.05% | 0.02% | -0.09% | -0.70% | -0.13% | 0.40% | 0.37% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Vào thứ Ba, Cục Thống kê Lao động Mỹ (BLS) đã công bố báo cáo việc làm chính thức lần đầu tiên kể từ khi chính phủ Mỹ mở cửa trở lại. Công bố cho thấy Bảng lương phi nông nghiệp giảm 105.000 trong tháng 10 và tăng 64.000 trong tháng 11. Tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 11 tăng nhẹ lên 4,6% từ 4,4%, trong khi lạm phát tiền lương hàng năm giảm xuống 3,5% từ 3,7% trong giai đoạn này. Chỉ số USD giảm xuống mức thấp nhất kể từ đầu tháng 10 dưới 98,00 với phản ứng ban đầu trước khi phục hồi một phần lớn tổn thất sau đó trong phiên giao dịch của Mỹ. Vào đầu ngày thứ Tư, chỉ số USD tăng lên khoảng 98,50. Trong nửa sau của ngày, một số nhà hoạch định chính sách của Fed sẽ có bài phát biểu.
Sau khi tăng hơn 0,3% vào thứ Ba, GBP/USD đã đảo chiều vào đầu ngày thứ Tư và giảm xuống dưới 1,3400. Lạm phát hàng năm ở Vương quốc Anh, được đo bằng sự thay đổi của Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), dự kiến sẽ giảm xuống 3,5% trong tháng 11 từ 3,6% trong tháng 10.
EUR/USD đã tăng lên trên 1,1800 lần đầu tiên kể từ cuối tháng 9 vào thứ Ba nhưng đã mất đà tăng. Cặp tiền này điều chỉnh giảm và giao dịch dưới 1,1750 trong buổi sáng châu Âu vào thứ Tư. Sau đó trong phiên, dữ liệu tâm lý kinh doanh IFO từ Đức sẽ được đưa vào lịch kinh tế châu Âu. Ngoài ra, Eurostat sẽ công bố các bản sửa đổi dữ liệu lạm phát tháng 11. Vào thứ Năm, Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) sẽ công bố quyết định lãi suất và công bố các dự báo kinh tế vĩ mô sửa đổi.
USD/JPY đã đóng cửa ngày thứ hai liên tiếp trong vùng tiêu cực vào thứ Ba trước khi phục hồi. Tại thời điểm viết bài, cặp này đã tăng 0,3% trong ngày ở mức 155,15.
Sau khi không tìm được hướng đi vào thứ Ba, Vàng đã tăng lực kéo vào đầu ngày thứ Tư và tăng khoảng 0,7% trong ngày gần mức 4.330$.
Lạm phát đo lường mức tăng giá của một rổ hàng hóa và dịch vụ tiêu biểu. Lạm phát tiêu đề thường được thể hiện dưới dạng phần trăm thay đổi theo tháng (hàng tháng) và theo năm (hàng năm). Lạm phát cốt lõi không bao gồm các yếu tố dễ biến động hơn như thực phẩm và nhiên liệu có thể dao động do các yếu tố địa chính trị và theo mùa. Lạm phát cốt lõi là con số mà các nhà kinh tế tập trung vào và là mức mà các ngân hàng trung ương nhắm tới, được giao nhiệm vụ giữ lạm phát ở mức có thể kiểm soát được, thường là khoảng 2%.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo lường sự thay đổi giá của một rổ hàng hóa và dịch vụ trong một khoảng thời gian. Chỉ số này thường được thể hiện dưới dạng phần trăm thay đổi theo tháng (hàng tháng) và theo năm (hàng năm). CPI cơ bản là con số mà các ngân hàng trung ương nhắm đến vì nó không bao gồm các đầu vào thực phẩm và nhiên liệu biến động. Khi CPI cơ bản tăng trên 2%, thường dẫn đến lãi suất cao hơn và ngược lại khi giảm xuống dưới 2%. Vì lãi suất cao hơn là tích cực đối với một loại tiền tệ, nên lạm phát cao hơn thường dẫn đến một loại tiền tệ mạnh hơn. Điều ngược lại xảy ra khi lạm phát giảm.
Mặc dù có vẻ trái ngược với thông thường, lạm phát cao ở một quốc gia sẽ đẩy giá trị đồng tiền của quốc gia đó lên và ngược lại đối với lạm phát thấp hơn. Điều này là do ngân hàng trung ương thường sẽ tăng lãi suất để chống lại lạm phát cao hơn, điều này thu hút nhiều dòng vốn toàn cầu hơn từ các nhà đầu tư đang tìm kiếm một nơi sinh lợi để gửi tiền của họ.
Trước đây, Vàng là tài sản mà các nhà đầu tư hướng đến trong thời kỳ lạm phát cao vì nó bảo toàn giá trị của nó, và trong khi các nhà đầu tư thường vẫn mua Vàng vì tính chất trú ẩn an toàn của nó trong thời kỳ thị trường biến động cực độ, thì hầu hết thời gian không phải vậy. Điều này là do khi lạm phát cao, các ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi suất để chống lại lạm phát. Lãi suất cao hơn là tiêu cực đối với Vàng vì chúng làm tăng chi phí cơ hội khi nắm giữ Vàng so với tài sản sinh lãi hoặc gửi tiền vào tài khoản tiền gửi bằng tiền mặt. Mặt khác, lạm phát thấp hơn có xu hướng tích cực đối với Vàng vì nó làm giảm lãi suất, khiến kim loại sáng này trở thành một lựa chọn đầu tư khả thi hơn.