Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Tư, ngày 20 tháng 8:
Đồng bảng Anh giữ vững vị thế sau hai ngày giảm giá khi các thị trường đánh giá dữ liệu lạm phát tháng 7 từ Vương quốc Anh. Sau đó trong phiên giao dịch tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ công bố biên bản cuộc họp chính sách từ ngày 29-30 tháng 7. Một số nhà hoạch định chính sách của Fed dự kiến sẽ có bài phát biểu trong nửa sau của ngày.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ mạnh nhất so với Đô la New Zealand.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | 0.67% | 0.44% | 0.13% | 0.40% | 1.02% | 1.62% | 0.32% | |
EUR | -0.67% | -0.23% | -0.55% | -0.27% | 0.36% | 0.91% | -0.35% | |
GBP | -0.44% | 0.23% | -0.42% | -0.04% | 0.59% | 1.14% | -0.16% | |
JPY | -0.13% | 0.55% | 0.42% | 0.29% | 0.90% | 1.51% | 0.19% | |
CAD | -0.40% | 0.27% | 0.04% | -0.29% | 0.59% | 1.22% | -0.12% | |
AUD | -1.02% | -0.36% | -0.59% | -0.90% | -0.59% | 0.55% | -0.75% | |
NZD | -1.62% | -0.91% | -1.14% | -1.51% | -1.22% | -0.55% | -1.31% | |
CHF | -0.32% | 0.35% | 0.16% | -0.19% | 0.12% | 0.75% | 1.31% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Ngân hàng Dự trữ New Zealand (RBNZ) đã thông báo vào sáng thứ Tư rằng họ đã giảm lãi suất chính sách xuống 25 điểm cơ bản (bps) xuống 3%, như đã dự đoán. Tuyên bố chính sách cho thấy một số nhà hoạch định chính sách ủng hộ việc cắt giảm 50 bps và nhấn mạnh rằng có khả năng giảm lãi suất chính sách hơn nữa nếu áp lực lạm phát trung hạn tiếp tục giảm như mong đợi. Thống đốc tạm quyền RBNZ Christian Hawkesby cho biết họ cảm thấy thoải mái với sự giảm giá của Đô la New Zealand (NZD). NZD/USD tiếp tục chịu áp lực bán mạnh vào sáng thứ Tư và giao dịch ở mức yếu nhất kể từ giữa tháng 4 dưới 0,5850, mất hơn 1% trong một ngày.
Văn phòng Thống kê Quốc gia Vương quốc Anh đã báo cáo vào thứ Tư rằng Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước trong tháng 7. Kết quả này theo sau mức tăng 3,6% được ghi nhận trong tháng 6 và cao hơn kỳ vọng của thị trường là 3,7%. Trong giai đoạn này, CPI cơ bản cũng tăng 3,8%. Trên cơ sở hàng tháng, CPI tăng 0,1%, so với ước tính của các nhà phân tích là giảm 0,1%. GBP/USD đã phục hồi từ mức thấp hàng ngày sau báo cáo lạm phát và gần đây giao dịch cao hơn một chút trong ngày, hơi trên 1,3500.
Chỉ số Đô la Mỹ (USD) duy trì trong giai đoạn củng cố trên 98,00 sau khi đóng cửa trong vùng tích cực trong hai ngày liên tiếp. Trong khi đó, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giảm từ 0,3% đến 0,4% trong phiên giao dịch châu Âu sớm, cho thấy lập trường thận trọng của thị trường. Bộ Tài chính Mỹ sẽ tổ chức một phiên đấu giá trái phiếu kỳ hạn 20 năm vào cuối ngày.
EUR/USD gặp khó khăn trong việc phục hồi và giao dịch dưới 1,1650 trong phiên giao dịch châu Âu vào thứ Tư. Eurostat sẽ phát hành các bản sửa đổi dữ liệu lạm phát tháng 7 vào cuối phiên.
Lạm phát hàng năm ở Canada, được đo bằng sự thay đổi của CPI, đã giảm xuống 1,7% trong tháng 7 từ 1,8% trong tháng 6, Cơ quan Thống kê Canada báo cáo vào thứ Ba. Sau khi tăng khoảng 0,5% vào thứ Ba, USD/CAD dao động trong một kênh chặt chẽ trên 1,3850 vào sáng thứ Tư.
Dữ liệu từ Nhật Bản cho thấy vào sáng thứ Tư rằng Đơn đặt hàng máy móc đã tăng 3% trên cơ sở hàng tháng trong tháng 6. Kết quả này vượt xa kỳ vọng của thị trường về một sự giảm 1%. Dữ liệu khác cho thấy Xuất khẩu và Nhập khẩu giảm lần lượt 2,6% và 7,5% so với cùng kỳ năm trước trong tháng 7. USD/JPY giảm nhẹ trong phiên giao dịch châu Âu và giao dịch dưới 147,50.
Vàng đã mất hơn 0,5% vào thứ Ba và ghi nhận mức đóng cửa hàng ngày thấp nhất kể từ ngày 1 tháng 8. XAU/USD điều chỉnh tăng vào sáng thứ Tư và giao dịch hơi trên 3.320$.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.