Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Tư, ngày 13 tháng 8:
Đồng đô la Mỹ (USD) tiếp tục chịu áp lực giảm giá vào đầu ngày thứ Tư, với chỉ số USD vẫn trong vùng đỏ dưới 98,00 sau khi ghi nhận mức lỗ vào thứ Ba. Lịch kinh tế sẽ không cung cấp bất kỳ dữ liệu phát hành nào có tác động lớn. Do đó, các nhà đầu tư sẽ chú ý theo dõi những nhận xét từ các nhà hoạch định chính sách của Cục Dự trữ Liên bang (Fed).
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Bảng Anh.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -0.52% | -0.71% | -0.03% | 0.06% | -0.41% | -0.40% | -0.60% | |
EUR | 0.52% | -0.18% | 0.50% | 0.59% | 0.12% | 0.07% | -0.07% | |
GBP | 0.71% | 0.18% | 0.64% | 0.78% | 0.30% | 0.26% | 0.12% | |
JPY | 0.03% | -0.50% | -0.64% | 0.14% | -0.33% | -0.29% | -0.41% | |
CAD | -0.06% | -0.59% | -0.78% | -0.14% | -0.46% | -0.51% | -0.68% | |
AUD | 0.41% | -0.12% | -0.30% | 0.33% | 0.46% | -0.04% | -0.18% | |
NZD | 0.40% | -0.07% | -0.26% | 0.29% | 0.51% | 0.04% | -0.14% | |
CHF | 0.60% | 0.07% | -0.12% | 0.41% | 0.68% | 0.18% | 0.14% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Dữ liệu được công bố bởi Cục Thống kê Lao động Mỹ (BLS) cho thấy vào thứ Ba rằng lạm phát hàng năm, được đo bằng sự thay đổi của Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), giữ ổn định ở mức 2,7% trong tháng 7. Trên cơ sở hàng tháng, CPI và CPI cơ bản lần lượt tăng 0,2% và 0,3%, phù hợp với ước tính của các nhà phân tích. Trên cơ sở hàng năm, CPI cơ bản tăng 3,1%, với tốc độ nhanh hơn mức tăng 2,9% ghi nhận trong tháng 6. Những con số này đã làm giảm lo ngại về việc thuế quan tác động đến lạm phát và nâng cao kỳ vọng về một triển vọng ôn hòa từ Fed trong quý cuối cùng của năm.
USD đã yếu đi so với các đối thủ của mình với phản ứng ngay lập tức trước dữ liệu lạm phát tháng 7 và gặp khó khăn trong việc giữ vững vị thế sau đó trong ngày khi dòng tiền rủi ro chi phối hành động trên thị trường tài chính. Các chỉ số chính của Phố Wall bắt đầu ngày giao dịch với đà tăng và ghi nhận mức tăng hơn 1% trong ngày. Chỉ số S&P 500 và chỉ số Nasdaq Composite đều đạt mức cao kỷ lục. Vào đầu ngày thứ Tư, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giao dịch cao hơn một cách khiêm tốn.
EUR/USD tăng khoảng 0,5% vào thứ Ba và tiếp tục tăng cao hơn vào đầu ngày thứ Tư. Tại thời điểm viết bài, cặp tiền này đang giao dịch trong vùng tích cực, cao hơn một chút so với 1,1700.
GBP/USD duy trì đà tăng trong buổi sáng thứ Tư ở châu Âu và giao dịch ở mức cao nhất trong ba tuần gần 1,3550 sau khi tăng 0,5% vào thứ Ba. Văn phòng Thống kê Quốc gia Vương quốc Anh sẽ công bố dữ liệu Tổng sản phẩm quốc nội quý hai vào thứ Năm.
Sau hai ngày tăng, USD/JPY đã đảo chiều và ghi nhận mức lỗ nhỏ vào thứ Ba. Cặp tiền này vẫn ở thế yếu và dao động quanh mức 146,50 vào thứ Tư.
AUD/USD tiếp tục tăng từ mức tăng vào thứ Ba và giao dịch ở mức cao nhất trong nhiều tuần gần 0,6550. Trong phiên giao dịch châu Á vào thứ Năm, dữ liệu việc làm từ Australia sẽ được những người tham gia thị trường theo dõi chặt chẽ.
Sau khi chịu tổn thất lớn vào thứ Hai, Vàng đã tìm thấy sự hỗ trợ vào thứ Ba và kết thúc ngày giao dịch gần như không thay đổi. XAU/USD gặp khó khăn trong việc thu hút người mua trong bầu không khí thị trường tích cực rủi ro và giao dịch trong một phạm vi hẹp trên 3.350$.
Trong thế giới thuật ngữ tài chính, hai thuật ngữ được sử dụng rộng rãi là “ưa rủi ro” và “ngại rủi ro” dùng để chỉ mức độ rủi ro mà các nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận trong giai đoạn được tham chiếu. Trong thị trường “ưa rủi ro”, các nhà đầu tư lạc quan về tương lai và sẵn sàng mua các tài sản rủi ro hơn. Trong thị trường “ngại rủi ro”, các nhà đầu tư bắt đầu “giao dịch an toàn” vì họ lo lắng về tương lai, và do đó mua các tài sản ít rủi ro hơn nhưng chắc chắn mang lại lợi nhuận hơn, ngay cả khi lợi nhuận tương đối khiêm tốn.
Thông thường, trong giai đoạn “ưa rủi ro”, thị trường chứng khoán sẽ tăng, hầu hết các mặt hàng – ngoại trừ Vàng – cũng sẽ tăng giá trị, vì chúng được hưởng lợi từ triển vọng tăng trưởng tích cực. Tiền tệ của các quốc gia là nước xuất khẩu hàng hóa lớn sẽ tăng giá do nhu cầu tăng và Tiền điện tử tăng. Trong thị trường “ngại rủi ro”, Trái phiếu tăng giá – đặc biệt là Trái phiếu chính phủ lớn – Vàng tỏa sáng và các loại tiền tệ trú ẩn an toàn như Yên Nhật, Franc Thụy Sĩ và Đô la Mỹ đều được hưởng lợi.
Đô la Úc (AUD), Đô la Canada (CAD), Đô la New Zealand (NZD) và các đồng tiền FX nhỏ như Rúp (RUB) và Rand Nam Phi (ZAR), tất cả đều có xu hướng tăng trên các thị trường “rủi ro”. Điều này là do nền kinh tế của các loại tiền tệ này phụ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu hàng hóa để tăng trưởng và giá hàng hóa có xu hướng tăng trong các giai đoạn rủi ro. Điều này là do các nhà đầu tư dự đoán nhu cầu về nguyên liệu thô sẽ tăng cao hơn trong tương lai do hoạt động kinh tế gia tăng.
Các loại tiền tệ chính có xu hướng tăng trong thời kỳ “rủi ro” là Đô la Mỹ (USD), Yên Nhật (JPY) và Franc Thụy Sĩ (CHF). Đô la Mỹ, vì đây là đồng tiền dự trữ của thế giới và vì trong thời kỳ khủng hoảng, các nhà đầu tư mua nợ chính phủ Hoa Kỳ, được coi là an toàn vì nền kinh tế lớn nhất thế giới khó có khả năng vỡ nợ. Đồng yên, do nhu cầu trái phiếu chính phủ Nhật Bản tăng, vì một tỷ lệ lớn được nắm giữ bởi các nhà đầu tư trong nước, những người không có khả năng bán tháo chúng - ngay cả trong khủng hoảng. Franc Thụy Sĩ, vì luật ngân hàng nghiêm ngặt của Thụy Sĩ cung cấp cho các nhà đầu tư sự bảo vệ vốn được tăng cường.