Cặp USD/JPY kéo dài chuỗi chiến thắng của mình trong ngày giao dịch thứ ba vào thứ Ba và tiến gần 148,50 trong phiên giao dịch châu Âu. Tài sản này tăng cường trước dữ liệu Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Hoa Kỳ (Mỹ) cho tháng 7, sẽ được công bố lúc 12:30 GMT.
Các nhà đầu tư sẽ chú ý đến báo cáo lạm phát để biết liệu tác động của thuế quan, được Tổng thống Mỹ Donald Trump áp dụng, có tiếp tục ảnh hưởng đến giá cả hay không. Báo cáo CPI tháng 6 cho thấy giá hàng hóa tăng tốc chủ yếu là hàng nhập khẩu trong nền kinh tế.
Các nhà kinh tế dự đoán lạm phát đầu vào của Mỹ đã tăng với tốc độ nhanh hơn 2,8% so với cùng kỳ năm trước, so với mức tăng 2,7% trong tháng 6. Trong cùng thời gian, CPI cốt lõi - loại trừ giá thực phẩm và năng lượng dễ biến động - đã tăng 3,0%, nhanh hơn so với mức đọc trước đó là 2,9%.
Các dấu hiệu của áp lực giá cả gia tăng sẽ buộc các nhà giao dịch phải đánh giá lại các cược ủng hộ việc cắt giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) cho cuộc họp chính sách tiền tệ tháng 9. Theo công cụ CME FedWatch, có 82% khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất quỹ liên bang 25 điểm cơ bản (bps) xuống 4,00%-4,25%.
Trong khi đó, đồng Yên Nhật (JPY) hoạt động kém hơn so với các đồng tiền khác khi các nhà đầu tư nghi ngờ rằng Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ) sẽ tăng lãi suất một lần nữa trong phần còn lại của năm. Tóm tắt ý kiến của BoJ cho thấy tuần trước rằng các quan chức lo ngại về rủi ro thương mại toàn cầu do việc áp dụng thuế quan của Mỹ.
Trong tương lai, các nhà đầu tư sẽ tập trung vào dữ liệu Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) quý 2 sơ bộ, sẽ được công bố vào thứ Sáu.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.