Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang St. Louis Alberto Musalem cho biết vào thứ Tư rằng ông thấy có nguy cơ rằng thuế quan có thể gây ra sự gia tăng lạm phát kéo dài, theo Reuters.
"Fed cần cân bằng giữa lạm phát và mục tiêu việc làm trong tương lai."
"Tăng trưởng dưới xu hướng, kỳ vọng ổn định nên làm giảm lạm phát."
"Kỳ vọng lạm phát sẽ giảm về 2% vào nửa sau của năm 2026."
"Thuế quan sẽ tác động đến nền kinh tế trong khoảng hai đến ba quý."
"Kỳ vọng tác động lạm phát từ thuế quan sẽ giảm dần theo thời gian."
"Kỳ vọng thị trường việc làm sẽ hạ nhiệt với những rủi ro giảm đối với lĩnh vực lao động."
"Thấy thị trường việc làm duy trì gần mức toàn dụng lao động."
"Thấy tăng trưởng GDP khiêm tốn trong năm nay trước khi trở lại xu hướng vào năm 2026."
"Sự không chắc chắn giảm bớt cho nền kinh tế, chính sách tài khóa có thể thêm kích thích."
"Mức điểm hòa vốn của thị trường việc làm nằm giữa 30.000 và 80.000 việc làm mỗi tháng."
Các bình luận này nhận được điểm số trung lập/diều hâu là 6,0 từ FXStreet Fed Speech Tracker. Ngược lại, Chỉ số Tâm lý Fed của FXStreet duy trì gần 100, chỉ ra lập trường trung lập.
Trong khi đó, Chỉ số Đô la Mỹ vẫn mắc kẹt trong một phạm vi hẹp hàng ngày và được giao dịch lần cuối ở mức 98,32.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.