EUR/USD giao dịch với mức giảm vừa phải, sau khi có hiệu suất mạnh mẽ vào ngày hôm trước. Cặp tiền này đang di chuyển quanh mức 1,1420 tại thời điểm viết bài, với các nhà đầu tư tập trung vào các số liệu Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) sơ bộ của khu vực đồng euro, dự kiến sẽ công bố vào cuối ngày thứ Ba.
Giá tiêu dùng dự kiến đã hạ nhiệt trong tháng 5, với lạm phát toàn phần trở lại mức tăng trưởng 2% so với cùng kỳ năm trước (YoY), từ mức 2,2% trong tháng 4. Tương tự, CPI cơ bản được dự đoán sẽ giảm xuống 2,5% từ mức 2,7% trong tháng 4.
Các số liệu này có khả năng được Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) hoan nghênh, ngân hàng này được dự đoán sẽ cắt giảm lãi suất lần thứ tám liên tiếp vào thứ Năm. Những con số này tạo ra một số không gian cho ngân hàng trung ương tạm dừng vào tháng 7, nhưng Chủ tịch ECB Christine Lagarde sẽ giữ giọng điệu trung lập, đảm bảo rằng các quyết định tiếp theo sẽ phụ thuộc vào dữ liệu.
Đồng đô la Mỹ, mặt khác, vẫn không thể cho thấy sự phục hồi đáng kể. Chính sách thương mại hỗn loạn của Tổng thống Mỹ Trump và những lo ngại ngày càng tăng về sự ổn định tài chính đang tạo ra sức cản đối với đồng bạc xanh, và dữ liệu gần đây của Mỹ không cung cấp bất kỳ hỗ trợ nào có liên quan.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đồng Euro (EUR) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê hôm nay. Đồng Euro mạnh nhất so với Đô la New Zealand.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | 0.22% | 0.14% | 0.03% | 0.12% | 0.55% | 0.55% | 0.05% | |
EUR | -0.22% | -0.04% | -0.18% | -0.08% | 0.35% | 0.41% | -0.15% | |
GBP | -0.14% | 0.04% | -0.12% | -0.04% | 0.40% | 0.45% | -0.10% | |
JPY | -0.03% | 0.18% | 0.12% | 0.09% | 0.50% | 0.53% | 0.09% | |
CAD | -0.12% | 0.08% | 0.04% | -0.09% | 0.38% | 0.49% | -0.06% | |
AUD | -0.55% | -0.35% | -0.40% | -0.50% | -0.38% | 0.05% | -0.53% | |
NZD | -0.55% | -0.41% | -0.45% | -0.53% | -0.49% | -0.05% | -0.55% | |
CHF | -0.05% | 0.15% | 0.10% | -0.09% | 0.06% | 0.53% | 0.55% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đồng Euro từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đô la Mỹ, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho EUR (đồng tiền cơ sở)/USD (đồng tiền định giá).
EUR/USD đã đạt mức cao nhất trong sáu tuần là 1,1450 vào thứ Hai nhưng không thể củng cố trên khu vực kháng cự giữa 1,1415 và 1,1435, khu vực này đã giữ vững phe đầu cơ giá lên kể từ giữa tháng 4.
Cặp tiền này, tuy nhiên, vẫn duy trì xu hướng tích cực, khi sự yếu kém của đồng đô la Mỹ đang giữ cho phe giảm giá tạm thời không thể tấn công. Mức kháng cự ngay lập tức hiện tại là đường xu hướng đảo ngược 1,1450, điều này đóng lại con đường tới mức cao ngày 22 tháng 4, ở mức 1,1545.
Việc không thể phá vỡ 1,1450, ngược lại, có thể đưa mức đáy ngày 30 tháng 5 ở 1,1310 trở lại vào cuộc chơi trước khu vực hỗ trợ 1,1220.
Lạm phát đo lường mức tăng giá của một rổ hàng hóa và dịch vụ tiêu biểu. Lạm phát tiêu đề thường được thể hiện dưới dạng phần trăm thay đổi theo tháng (hàng tháng) và theo năm (hàng năm). Lạm phát cốt lõi không bao gồm các yếu tố dễ biến động hơn như thực phẩm và nhiên liệu có thể dao động do các yếu tố địa chính trị và theo mùa. Lạm phát cốt lõi là con số mà các nhà kinh tế tập trung vào và là mức mà các ngân hàng trung ương nhắm tới, được giao nhiệm vụ giữ lạm phát ở mức có thể kiểm soát được, thường là khoảng 2%.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo lường sự thay đổi giá của một rổ hàng hóa và dịch vụ trong một khoảng thời gian. Chỉ số này thường được thể hiện dưới dạng phần trăm thay đổi theo tháng (hàng tháng) và theo năm (hàng năm). CPI cơ bản là con số mà các ngân hàng trung ương nhắm đến vì nó không bao gồm các đầu vào thực phẩm và nhiên liệu biến động. Khi CPI cơ bản tăng trên 2%, thường dẫn đến lãi suất cao hơn và ngược lại khi giảm xuống dưới 2%. Vì lãi suất cao hơn là tích cực đối với một loại tiền tệ, nên lạm phát cao hơn thường dẫn đến một loại tiền tệ mạnh hơn. Điều ngược lại xảy ra khi lạm phát giảm.
Mặc dù có vẻ trái ngược với thông thường, lạm phát cao ở một quốc gia sẽ đẩy giá trị đồng tiền của quốc gia đó lên và ngược lại đối với lạm phát thấp hơn. Điều này là do ngân hàng trung ương thường sẽ tăng lãi suất để chống lại lạm phát cao hơn, điều này thu hút nhiều dòng vốn toàn cầu hơn từ các nhà đầu tư đang tìm kiếm một nơi sinh lợi để gửi tiền của họ.
Trước đây, Vàng là tài sản mà các nhà đầu tư hướng đến trong thời kỳ lạm phát cao vì nó bảo toàn giá trị của nó, và trong khi các nhà đầu tư thường vẫn mua Vàng vì tính chất trú ẩn an toàn của nó trong thời kỳ thị trường biến động cực độ, thì hầu hết thời gian không phải vậy. Điều này là do khi lạm phát cao, các ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi suất để chống lại lạm phát. Lãi suất cao hơn là tiêu cực đối với Vàng vì chúng làm tăng chi phí cơ hội khi nắm giữ Vàng so với tài sản sinh lãi hoặc gửi tiền vào tài khoản tiền gửi bằng tiền mặt. Mặt khác, lạm phát thấp hơn có xu hướng tích cực đối với Vàng vì nó làm giảm lãi suất, khiến kim loại sáng này trở thành một lựa chọn đầu tư khả thi hơn.