Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Hai, ngày 2 tháng 6:
Đồng đô la Mỹ (USD) suy yếu so với các đối thủ chính trong ngày giao dịch đầu tiên của tháng 6. Vào nửa cuối ngày, lịch kinh tế Mỹ sẽ có dữ liệu Chỉ số người quản lý mua hàng (PMI) ngành sản xuất ISM cho tháng 5. Những người tham gia thị trường cũng sẽ chú ý đến những bình luận từ các quan chức ngân hàng trung ương.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê hôm nay. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đô la New Zealand.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -0.49% | -0.52% | -0.44% | -0.33% | -0.58% | -0.75% | -0.43% | |
EUR | 0.49% | -0.04% | 0.07% | 0.15% | -0.08% | -0.30% | 0.06% | |
GBP | 0.52% | 0.04% | 0.12% | 0.19% | -0.04% | -0.26% | 0.09% | |
JPY | 0.44% | -0.07% | -0.12% | 0.11% | -0.14% | -0.33% | -0.07% | |
CAD | 0.33% | -0.15% | -0.19% | -0.11% | -0.25% | -0.45% | -0.10% | |
AUD | 0.58% | 0.08% | 0.04% | 0.14% | 0.25% | -0.15% | 0.23% | |
NZD | 0.75% | 0.30% | 0.26% | 0.33% | 0.45% | 0.15% | 0.35% | |
CHF | 0.43% | -0.06% | -0.09% | 0.07% | 0.10% | -0.23% | -0.35% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Chỉ số USD, thước đo hiệu suất của USD so với rổ sáu loại tiền tệ chính, đã kết thúc tuần trước với mức tăng nhẹ. Dữ liệu do Cục Phân tích Kinh tế Mỹ công bố vào thứ Sáu cho thấy tỷ lệ lạm phát hàng năm ở Hoa Kỳ, được đo bằng sự thay đổi trong Chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE), đã giảm xuống 2,1% trong tháng 4 từ mức 2,3% trong tháng 3.
Đầu ngày thứ Hai, Chỉ số USD giữ ở vùng tiêu cực dưới 99,00. Trong khi đó, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ lần cuối được nhìn thấy giảm từ 0,5% đến 0,7% trong ngày, phản ánh tâm lý thận trọng của thị trường vào đầu tuần. Những căng thẳng địa chính trị leo thang do tin tức về việc Ukraine thực hiện một cuộc tấn công bằng máy bay không người lái quy mô lớn vào các máy bay ném bom quân sự của Nga ở Siberia dường như đang đè nặng lên tâm lý rủi ro.
Thủ tướng Nhật Bản Shigeru Ishiba nhấn mạnh vào đầu ngày thứ Hai rằng Nhật Bản sẽ không lùi bước trong yêu cầu giảm thuế quan. Vào thứ Năm, Bộ trưởng Kinh tế Nhật Bản Ryosei Akazawa dự kiến sẽ có cuộc thảo luận với Bộ trưởng Tài chính Mỹ Scott Bessent.USD/JPY chịu áp lực giảm giá vào đầu ngày thứ Hai và giao dịch dưới 143,50.
EUR/USD tăng sức hút vào buổi sáng châu Âu và giao dịch gần 1,1400. Lịch kinh tế châu Âu sẽ có các điều chỉnh dữ liệu PMI ngành sản xuất HCOB của khu vực đồng euro và Đức cho tháng 5.
Sau khi giảm nhẹ vào thứ Sáu, GBP/USD quay đầu tăng vào thứ Hai và giao dịch thoải mái trên 1,3500. Ngân hàng trung ương Anh (BoE) sẽ công bố dữ liệu phê duyệt thế chấp cho tháng 4.
Vàng hưởng lợi từ bầu không khí thị trường ưa rủi ro và ghi nhận mức tăng mạnh vào đầu ngày thứ Hai. XAU/USD lần cuối được nhìn thấy giao dịch dưới 3.350$, tăng hơn 1,5% trong ngày.
Dữ liệu từ Thụy Sĩ cho thấy vào thứ Hai rằng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng với tốc độ hàng năm là 2% trong quý thứ hai. Đọc này đã vượt qua kỳ vọng của thị trường là 1,5%.USD/CHF giảm nhẹ sau dữ liệu tích cực và giao dịch dưới 0,8200.
Trong thế giới thuật ngữ tài chính, hai thuật ngữ được sử dụng rộng rãi là “ưa rủi ro” và “ngại rủi ro” dùng để chỉ mức độ rủi ro mà các nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận trong giai đoạn được tham chiếu. Trong thị trường “ưa rủi ro”, các nhà đầu tư lạc quan về tương lai và sẵn sàng mua các tài sản rủi ro hơn. Trong thị trường “ngại rủi ro”, các nhà đầu tư bắt đầu “giao dịch an toàn” vì họ lo lắng về tương lai, và do đó mua các tài sản ít rủi ro hơn nhưng chắc chắn mang lại lợi nhuận hơn, ngay cả khi lợi nhuận tương đối khiêm tốn.
Thông thường, trong giai đoạn “ưa rủi ro”, thị trường chứng khoán sẽ tăng, hầu hết các mặt hàng – ngoại trừ Vàng – cũng sẽ tăng giá trị, vì chúng được hưởng lợi từ triển vọng tăng trưởng tích cực. Tiền tệ của các quốc gia là nước xuất khẩu hàng hóa lớn sẽ tăng giá do nhu cầu tăng và Tiền điện tử tăng. Trong thị trường “ngại rủi ro”, Trái phiếu tăng giá – đặc biệt là Trái phiếu chính phủ lớn – Vàng tỏa sáng và các loại tiền tệ trú ẩn an toàn như Yên Nhật, Franc Thụy Sĩ và Đô la Mỹ đều được hưởng lợi.
Đô la Úc (AUD), Đô la Canada (CAD), Đô la New Zealand (NZD) và các đồng tiền FX nhỏ như Rúp (RUB) và Rand Nam Phi (ZAR), tất cả đều có xu hướng tăng trên các thị trường “rủi ro”. Điều này là do nền kinh tế của các loại tiền tệ này phụ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu hàng hóa để tăng trưởng và giá hàng hóa có xu hướng tăng trong các giai đoạn rủi ro. Điều này là do các nhà đầu tư dự đoán nhu cầu về nguyên liệu thô sẽ tăng cao hơn trong tương lai do hoạt động kinh tế gia tăng.
Các loại tiền tệ chính có xu hướng tăng trong thời kỳ “rủi ro” là Đô la Mỹ (USD), Yên Nhật (JPY) và Franc Thụy Sĩ (CHF). Đô la Mỹ, vì đây là đồng tiền dự trữ của thế giới và vì trong thời kỳ khủng hoảng, các nhà đầu tư mua nợ chính phủ Hoa Kỳ, được coi là an toàn vì nền kinh tế lớn nhất thế giới khó có khả năng vỡ nợ. Đồng yên, do nhu cầu trái phiếu chính phủ Nhật Bản tăng, vì một tỷ lệ lớn được nắm giữ bởi các nhà đầu tư trong nước, những người không có khả năng bán tháo chúng - ngay cả trong khủng hoảng. Franc Thụy Sĩ, vì luật ngân hàng nghiêm ngặt của Thụy Sĩ cung cấp cho các nhà đầu tư sự bảo vệ vốn được tăng cường.