Cặp AUD/USD chuyển sang trạng thái đi ngang khi đợt tăng kéo dài ba tuần tạm dừng sau khi đạt mức cao nhất trong ba tháng là 0,6686 vào thứ Tư. Trong giờ giao dịch châu Âu sớm vào thứ Sáu, cặp tiền này giao dịch ổn định gần mức 0,6660.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Úc (AUD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Úc mạnh nhất so với Đồng Yên Nhật.
| USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| USD | -0.81% | -0.51% | 0.30% | -0.43% | -0.45% | -0.73% | -1.16% | |
| EUR | 0.81% | 0.33% | 1.15% | 0.42% | 0.40% | 0.12% | -0.33% | |
| GBP | 0.51% | -0.33% | 0.86% | 0.09% | 0.08% | -0.21% | -0.65% | |
| JPY | -0.30% | -1.15% | -0.86% | -0.72% | -0.73% | -1.00% | -1.44% | |
| CAD | 0.43% | -0.42% | -0.09% | 0.72% | -0.01% | -0.29% | -0.74% | |
| AUD | 0.45% | -0.40% | -0.08% | 0.73% | 0.01% | -0.29% | -0.72% | |
| NZD | 0.73% | -0.12% | 0.21% | 1.00% | 0.29% | 0.29% | -0.44% | |
| CHF | 1.16% | 0.33% | 0.65% | 1.44% | 0.74% | 0.72% | 0.44% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Úc từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đô la Mỹ, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho AUD (đồng tiền cơ sở)/USD (đồng tiền định giá).
Cặp tiền này gặp khó khăn trong việc mở rộng đà tăng sau khi công bố dữ liệu thị trường lao động Úc yếu hơn mong đợi cho tháng 11. Dữ liệu được công bố vào thứ Năm cho thấy nền kinh tế đã mất 21,3 nghìn việc làm trong tháng 11, trong khi dự kiến sẽ có thêm 20 nghìn lao động mới, làm dấy lên lo ngại về sức mạnh của thị trường lao động.
Trong khi đó, các nhà đầu tư chuyển sự chú ý sang dữ liệu Bảng lương phi nông nghiệp (NFP) của Mỹ cho tháng 11, sẽ được công bố vào thứ Ba.
Các nhà đầu tư sẽ chú ý đến dữ liệu NFP của Mỹ vì tác động của nó đến kỳ vọng thị trường về triển vọng chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) được dự đoán sẽ cao. Trong ba cuộc họp chính sách tiền tệ gần đây, Fed đã hạ lãi suất 100 điểm cơ bản (bps) xuống 3,50%-3,75%, với lý do rủi ro giảm đối với việc làm.
Tại thời điểm viết bài, Chỉ số Đô la Mỹ (DXY), theo dõi giá trị của đồng bạc xanh so với sáu loại tiền tệ chính, giao dịch thận trọng gần mức thấp nhất trong bảy tuần là 98,13 được ghi nhận vào thứ Năm.

AUD/USD giao dịch ổn định gần mức 0,6660 trong phiên châu Âu sớm vào thứ Sáu. Cặp tiền này giữ trên Đường trung bình động hàm mũ (EMA) 20 ngày đang tăng, hiện ở mức 0,6588, hỗ trợ cho xu hướng tăng giá. Đường EMA 20 ngày đã tăng trong vài phiên và tiếp tục dẫn dắt xu hướng đi lên.
Chỉ số sức mạnh tương đối (RSI) 14 ngày ở mức 67 (tăng giá, gần mức quá mua) xác nhận động lực vững chắc trong khi tiến gần đến một mức mà lợi nhuận có thể chậm lại.
Với động lực được nâng cao, phe mua giữ quyền kiểm soát, mặc dù sự gần gũi với các điều kiện quá mua có thể làm giảm đà tiếp theo và khuyến khích sự củng cố. Một sự thoái lui được kỳ vọng sẽ tìm thấy nhu cầu khi tiếp cận đường trung bình đang tăng, trong khi một mức đóng cửa dưới nó sẽ mở ra không gian cho một giai đoạn điều chỉnh rộng hơn hướng tới mức cao ngày 14 tháng 11 là 0,6551; nếu không, xu hướng chung sẽ vẫn là tăng miễn là hành động giá tôn trọng chỉ báo xu hướng. Nhìn lên, đà tăng có thể mở rộng về phía mức cao ngày 17 tháng 9 là 0,6707.
(Phân tích kỹ thuật của câu chuyện này được viết với sự trợ giúp của một công cụ AI)
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.