Cặp NZD/USD giao dịch trong một phạm vi hẹp quanh mức 0,5960 trong phiên giao dịch châu Âu vào thứ Sáu. Cặp Kiwi tích lũy sau đà tăng hai ngày, trong khi đồng đô la Mỹ (USD) chật vật để giành lấy vị thế do kỳ vọng lạc quan rằng Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ cắt giảm lãi suất trong cuộc họp tháng 9.
Trong giờ giao dịch châu Âu, đồng đô la Mỹ (USD) chật vật để giành lấy vị thế, với chỉ số đô la Mỹ (DXY) tăng nhẹ, nhưng vẫn gần mức thấp hơn một tuần khoảng 98,00.
Kỳ vọng lãi suất của Fed đã gia tăng do lo ngại về thị trường lao động ngày càng tăng. Một loạt các quan chức Fed đã cảnh báo về rủi ro việc làm giảm sau thông báo chính sách tiền tệ vào tuần trước.
Trong khi đó, Tổng thống Hoa Kỳ (Mỹ) Donald Trump đã đề cử Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế Stephen Miran làm người thay thế Thống đốc Fed Adriana Kugler, người đã từ chức vào tuần trước.
Cũng tại New Zealand (NZ), điều kiện thị trường lao động hạ nhiệt đã gia tăng hy vọng về việc mở rộng chính sách tiền tệ hơn nữa của Ngân hàng Dự trữ New Zealand (RBNZ). Dữ liệu cho thấy sự giảm 0,1% trong Thay đổi Ròng về Việc làm, như đã dự kiến, trong quý hai của năm. Trong cùng kỳ, tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên 5,2% từ mức đọc trước đó là 5,1%.
NZD/USD cố gắng mở rộng đà phục hồi trên Đường trung bình động hàm mũ (EMA) 50 ngày, giao dịch quanh mức 0,5967.
Chỉ báo sức mạnh tương đối (RSI) 14 ngày dao động quanh mức 50,00, cho thấy một xu hướng đi ngang.
Trong tương lai, một động thái giảm của cặp này xuống dưới mức thấp ngày 23 tháng 6 là 0,5883 sẽ khiến nó tiếp cận mức thấp ngày 12 tháng 5 là 0,5846, tiếp theo là mức hỗ trợ tròn 0,5800.
Trong một kịch bản thay thế, cặp Kiwi sẽ tăng lên mức cao ngày 19 tháng 6 là 0,6040 và mức thấp ngày 11 tháng 9 là 0,6100 nếu nó quản lý để trở lại trên mức tâm lý 0,6000.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.