EUR/USD gần như không thay đổi vào thứ Ba, giao dịch ở mức 1,1610 tại thời điểm viết bài, sau khi rút lui từ mức cao nhất trong hai tuần trên 1,1650 vào ngày hôm trước. Đồng Đô la Mỹ (USD) đã bật lên từ mức thấp, trong bối cảnh tâm lý thị trường thận trọng, với các nhà đầu tư đang chờ đợi việc công bố Chỉ số Giá tiêu dùng Hài hòa (HICP) sơ bộ của khu vực đồng euro và Tỷ lệ thất nghiệp.
Chỉ số Đô la Mỹ (DXY), đo lường giá trị của đồng Đô la Mỹ so với rổ sáu đồng tiền chính, đã tìm thấy một số điểm tựa vào thứ Hai, bất chấp chỉ số PMI ngành sản xuất ISM của Mỹ yếu, cho thấy hoạt động của ngành này đã thu hẹp trong tháng thứ chín liên tiếp, với đơn đặt hàng mới và việc làm giảm và áp lực lạm phát gia tăng.
Thống đốc Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ) Kazuo Ueda đã làm rung chuyển thị trường vào thứ Hai, ám chỉ khả năng tăng lãi suất vào tháng 12. Những bình luận này đã kích hoạt một đợt bán tháo toàn cầu trên thị trường trái phiếu, khiến lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ tăng cao hơn và cung cấp một số hỗ trợ cho đồng Đô la Mỹ đang yếu.
Một phiên đấu giá trái phiếu chính phủ Nhật Bản được đón nhận tốt vào đầu ngày thứ Ba đã phần nào làm giảm bớt lo ngại, mặc dù tâm lý vẫn thận trọng. Lịch kinh tế của Mỹ hôm nay khá mỏng, và sự chú ý sẽ vẫn tập trung vào chỉ số PMI dịch vụ ISM và báo cáo thay đổi việc làm ADP, dự kiến công bố vào thứ Tư.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đồng Euro (EUR) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê hôm nay. Đồng Euro mạnh nhất so với Đồng Yên Nhật.
| USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| USD | -0.02% | -0.02% | 0.20% | -0.03% | -0.18% | -0.02% | -0.08% | |
| EUR | 0.02% | 0.00% | 0.22% | -0.01% | -0.16% | -0.00% | -0.06% | |
| GBP | 0.02% | -0.00% | 0.21% | -0.02% | -0.18% | -0.00% | -0.06% | |
| JPY | -0.20% | -0.22% | -0.21% | -0.22% | -0.37% | -0.22% | -0.27% | |
| CAD | 0.03% | 0.01% | 0.02% | 0.22% | -0.14% | 0.01% | -0.04% | |
| AUD | 0.18% | 0.16% | 0.18% | 0.37% | 0.14% | 0.16% | 0.10% | |
| NZD | 0.02% | 0.00% | 0.00% | 0.22% | -0.01% | -0.16% | -0.05% | |
| CHF | 0.08% | 0.06% | 0.06% | 0.27% | 0.04% | -0.10% | 0.05% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đồng Euro từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đô la Mỹ, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho EUR (đồng tiền cơ sở)/USD (đồng tiền định giá).

EUR/USD đã rút lui từ mức cao 1,1650, nhưng xu hướng ngay lập tức vẫn là tăng. Cặp tiền này đang cố gắng phá vỡ và củng cố trên mức kháng cự đường xu hướng tại 1,1615, với các chỉ báo kỹ thuật hỗn hợp trên biểu đồ 4 giờ. Chỉ số Sức mạnh Tương đối (RSI) vẫn ở vùng tăng giá gần mức 60,0, trong khi chỉ báo Đường trung bình động hội tụ phân kỳ (MACD) vẫn dao động quanh đường tín hiệu, cho thấy đà yếu.
Trên mức 1,1615, các nhà đầu cơ giá lên có khả năng sẽ gặp thách thức tại khu vực 1,1660-1,1670 (các mức cao ngày 28, 29 tháng 10, 13, 14 tháng 11). Hơn nữa, mục tiêu tiếp theo là mức cao ngày 17 tháng 10, ngay dưới 1,1730, mặc dù có vẻ quá xa cho phiên giao dịch thứ Ba.
Về phía giảm, cặp tiền này đã tìm thấy hỗ trợ tại khu vực 1,1600-1,1590 (mức thấp của thứ Hai, mức thấp trong ngày), trước khu vực 1,1550, nơi đã giữ vững các nhà đầu cơ giá xuống vào ngày 26 và 28 tháng 11. Hơn nữa, mức tâm lý 1,1500 và các mức thấp ngày 5 tháng 11, gần 1,1470, sẽ được đưa vào xem xét.
Lạm phát đo lường mức tăng giá của một rổ hàng hóa và dịch vụ tiêu biểu. Lạm phát tiêu đề thường được thể hiện dưới dạng phần trăm thay đổi theo tháng (hàng tháng) và theo năm (hàng năm). Lạm phát cốt lõi không bao gồm các yếu tố dễ biến động hơn như thực phẩm và nhiên liệu có thể dao động do các yếu tố địa chính trị và theo mùa. Lạm phát cốt lõi là con số mà các nhà kinh tế tập trung vào và là mức mà các ngân hàng trung ương nhắm tới, được giao nhiệm vụ giữ lạm phát ở mức có thể kiểm soát được, thường là khoảng 2%.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo lường sự thay đổi giá của một rổ hàng hóa và dịch vụ trong một khoảng thời gian. Chỉ số này thường được thể hiện dưới dạng phần trăm thay đổi theo tháng (hàng tháng) và theo năm (hàng năm). CPI cơ bản là con số mà các ngân hàng trung ương nhắm đến vì nó không bao gồm các đầu vào thực phẩm và nhiên liệu biến động. Khi CPI cơ bản tăng trên 2%, thường dẫn đến lãi suất cao hơn và ngược lại khi giảm xuống dưới 2%. Vì lãi suất cao hơn là tích cực đối với một loại tiền tệ, nên lạm phát cao hơn thường dẫn đến một loại tiền tệ mạnh hơn. Điều ngược lại xảy ra khi lạm phát giảm.
Mặc dù có vẻ trái ngược với thông thường, lạm phát cao ở một quốc gia sẽ đẩy giá trị đồng tiền của quốc gia đó lên và ngược lại đối với lạm phát thấp hơn. Điều này là do ngân hàng trung ương thường sẽ tăng lãi suất để chống lại lạm phát cao hơn, điều này thu hút nhiều dòng vốn toàn cầu hơn từ các nhà đầu tư đang tìm kiếm một nơi sinh lợi để gửi tiền của họ.
Trước đây, Vàng là tài sản mà các nhà đầu tư hướng đến trong thời kỳ lạm phát cao vì nó bảo toàn giá trị của nó, và trong khi các nhà đầu tư thường vẫn mua Vàng vì tính chất trú ẩn an toàn của nó trong thời kỳ thị trường biến động cực độ, thì hầu hết thời gian không phải vậy. Điều này là do khi lạm phát cao, các ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi suất để chống lại lạm phát. Lãi suất cao hơn là tiêu cực đối với Vàng vì chúng làm tăng chi phí cơ hội khi nắm giữ Vàng so với tài sản sinh lãi hoặc gửi tiền vào tài khoản tiền gửi bằng tiền mặt. Mặt khác, lạm phát thấp hơn có xu hướng tích cực đối với Vàng vì nó làm giảm lãi suất, khiến kim loại sáng này trở thành một lựa chọn đầu tư khả thi hơn.