Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Sáu, ngày 14 tháng 11:
Chỉ số Đô la Mỹ (USD) vẫn đang trên đà kết thúc tuần trong vùng tiêu cực khi các nhà đầu tư ngày càng lo ngại về lượng dữ liệu tồn đọng của Mỹ, làm nổi bật tác động tiêu cực của việc chính phủ đóng cửa đối với triển vọng kinh tế. Lịch kinh tế châu Âu sẽ có bản sửa đổi dữ liệu Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) quý ba và dữ liệu Thay đổi việc làm cho Khu vực đồng euro. Trong nửa sau của ngày, các nhà đầu tư sẽ chú ý đến những bình luận từ các quan chức Cục Dự trữ Liên bang (Fed).
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đồng Franc Thụy Sĩ.
| USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| USD | -0.72% | -0.02% | 0.39% | -0.19% | -0.55% | -0.95% | -1.75% | |
| EUR | 0.72% | 0.69% | 1.15% | 0.50% | 0.15% | -0.26% | -1.06% | |
| GBP | 0.02% | -0.69% | 0.55% | -0.18% | -0.53% | -0.94% | -1.74% | |
| JPY | -0.39% | -1.15% | -0.55% | -0.63% | -0.97% | -1.37% | -2.22% | |
| CAD | 0.19% | -0.50% | 0.18% | 0.63% | -0.27% | -0.78% | -1.63% | |
| AUD | 0.55% | -0.15% | 0.53% | 0.97% | 0.27% | -0.42% | -1.22% | |
| NZD | 0.95% | 0.26% | 0.94% | 1.37% | 0.78% | 0.42% | -0.81% | |
| CHF | 1.75% | 1.06% | 1.74% | 2.22% | 1.63% | 1.22% | 0.81% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Đô la Mỹ chịu áp lực giảm giá trở lại vào thứ Năm khi sự không chắc chắn xung quanh các điều kiện kinh tế vẫn tồn tại mặc dù chính phủ đã mở cửa trở lại. Những người tham gia thị trường vẫn đang chờ đợi một cập nhật chính thức về cách các bản phát hành dữ liệu bị hoãn sẽ được xử lý, đặc biệt là sau khi thư ký báo chí Nhà Trắng Karoline Leavitt cho biết rằng Cục Thống kê Lao động (BLS) có thể sẽ không bao giờ công bố các số liệu việc làm và lạm phát cho tháng Mười. Trong khi đó, những nhận xét thận trọng của các nhà hoạch định chính sách Fed về việc nới lỏng chính sách hơn nữa đã đè nặng lên tâm lý vào thứ Năm, khiến các chỉ số chính của Phố Wall chịu tổn thất nặng nề. Sáng thứ Sáu, Chỉ số USD giữ ổn định, nhỉnh hơn một chút so với 99,00, trong khi hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giao dịch trái chiều.
Sau khi tăng gần 0,4% vào thứ Năm, EUR/USD vẫn tương đối yên tĩnh vào sáng thứ Sáu và dao động gần 1,1650. Eurostat sẽ công bố dữ liệu Cán cân thương mại cho tháng Chín.
Vàng được hưởng lợi từ tâm lý rủi ro xấu đi và mở rộng đà tăng lên mức cao nhất trong ba tuần mới trên 4.200$ vào thứ Năm. XAU/USD điều chỉnh giảm vào sáng thứ Sáu nhưng vẫn giữ trên 4.150$.
Báo Financial Times đưa tin vào cuối thứ Năm rằng Thủ tướng Vương quốc Anh Keir Starmer và Bộ trưởng Tài chính Rachel Reeves đã từ bỏ kế hoạch tăng thuế thu nhập, trong một bước ngoặt kịch tính trước ngân sách vào ngày 26 tháng 11. GBP/USD vẫn ở thế yếu vào buổi sáng châu Âu vào thứ Sáu và giao dịch trong vùng tiêu cực khoảng 1,3150.
Dữ liệu từ Trung Quốc cho thấy vào sáng thứ Sáu rằng Doanh số bán lẻ tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước trong tháng Mười, trong khi Sản xuất công nghiệp mở rộng 4,9%. AUD/USD vẫn trong giai đoạn củng cố trên 0,6500 sau khi ghi nhận mức lỗ nhẹ vào thứ Năm.
USD/JPY đã chấm dứt chuỗi ba ngày tăng liên tiếp và đóng cửa trong vùng tiêu cực vào thứ Năm. Cặp tiền này di chuyển đi ngang gần 154,50 vào buổi sáng châu Âu vào thứ Sáu. Bộ trưởng Kinh tế Nhật Bản Minoru Kiuchi cho biết rằng đồng yên Nhật yếu có thể đẩy lạm phát lên cao thông qua chi phí nhập khẩu.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.