Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Tư, ngày 12 tháng 11:
Đồng đô la Mỹ (USD) ổn định vào đầu ngày thứ Tư, sau khi gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nhu cầu vào thứ Ba. Trong bối cảnh không có các dữ liệu quan trọng được công bố, các nhà đầu tư sẽ chú ý đến những bình luận từ các quan chức của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và cuộc bỏ phiếu của Hạ viện về dự luật tài trợ để chính thức chấm dứt tình trạng đóng cửa chính phủ.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đô la Úc.
| USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| USD | -0.23% | 0.02% | 0.40% | -0.35% | -0.74% | -0.63% | -0.71% | |
| EUR | 0.23% | 0.26% | 0.70% | -0.15% | -0.54% | -0.42% | -0.51% | |
| GBP | -0.02% | -0.26% | 0.51% | -0.38% | -0.77% | -0.65% | -0.74% | |
| JPY | -0.40% | -0.70% | -0.51% | -0.81% | -1.20% | -1.08% | -1.21% | |
| CAD | 0.35% | 0.15% | 0.38% | 0.81% | -0.31% | -0.29% | -0.43% | |
| AUD | 0.74% | 0.54% | 0.77% | 1.20% | 0.31% | 0.11% | 0.03% | |
| NZD | 0.63% | 0.42% | 0.65% | 1.08% | 0.29% | -0.11% | -0.09% | |
| CHF | 0.71% | 0.51% | 0.74% | 1.21% | 0.43% | -0.03% | 0.09% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Vào thứ Ba, dữ liệu hàng tuần được công bố bởi Automatic Data Processing (ADP) cho thấy các nhà tuyển dụng tư nhân đã cắt giảm trung bình 11.250 việc làm mỗi tuần, trong bốn tuần kết thúc vào ngày 25 tháng 10. Dữ liệu thất vọng này đã gây áp lực lên USD trong giờ giao dịch của Mỹ, và Chỉ số USD đã đóng cửa trong vùng tiêu cực. Vào buổi sáng châu Âu thứ Tư, Chỉ số USD giữ ổn định quanh mức 99,50. Trong khi đó, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ được thấy tăng từ 0,2% đến 0,5%, phản ánh tâm lý thị trường tương đối lạc quan.
EUR/USD đã hưởng lợi từ sự yếu kém chung của USD vào thứ Ba và đã tăng lên trên mức 1,1600 trong thời gian ngắn. Cặp này vẫn ở trong giai đoạn tích lũy vào đầu ngày thứ Tư và dao động trong một kênh hẹp hơi dưới mức này.
Sau khi giảm xuống mức 1,3100 do dữ liệu thị trường lao động thất vọng trong phiên giao dịch châu Âu vào thứ Ba, GBP/USD đã phục hồi và xóa bớt một phần lỗ trong ngày. Cặp này gặp khó khăn để đạt được lực kéo vào thứ Tư và giao dịch gần mức 1,3150.
Sau đà tăng vào thứ Hai, Vàng đã trở nên yên tĩnh vào thứ Ba và kết thúc ngày với mức tăng nhẹ. XAU/USD tiếp tục dao động ngang để bắt đầu phiên giao dịch châu Âu vào thứ Tư và giữ vững trên mức 4.100$.
Thủ tướng Nhật Bản Sanae Takaichi cho biết vào thứ Tư rằng họ không thể nói rằng Nhật Bản đã thoát khỏi tình trạng giảm phát, và thêm rằng bà hy vọng Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ) sẽ thực hiện chính sách để Nhật Bản đạt được mục tiêu giá một cách bền vững. USD/JPY tiếp tục tăng cao và giao dịch ở mức mạnh nhất kể từ tháng Hai trên 154,50 sau khi ghi nhận mức tăng nhỏ vào thứ Hai và thứ Ba.
Phó Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Úc (RBA) Andrew Hauser cho biết vào thứ Tư rằng họ dự đoán chính sách tiền tệ vẫn đang thắt chặt. "Nếu hóa ra chúng tôi không còn thắt chặt nhẹ nữa, điều đó sẽ có những tác động quan trọng đến chính sách trong tương lai," Hauser nói thêm. AUD/USD giữ vững vị thế vào thứ Tư và tăng nhẹ hướng tới 0,6550. Trong phiên giao dịch châu Á vào thứ Năm, Cục Thống kê Úc sẽ công bố dữ liệu thị trường lao động cho tháng Mười.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.