Đồng đô la New Zealand đang chịu áp lực giảm giá ngày càng tăng so với đồng đô la Mỹ, sau khi bị từ chối từ khu vực 0,5805 vào thứ Tư. Nến nhấn chìm giảm giá được in trên biểu đồ hàng ngày, và mức cao hơn thấp hơn vào thứ Năm, cho thấy chu kỳ tăng giá từ mức thấp giữa tháng Mười đã cạn kiệt sức lực.
Vào thứ Tư, những bình luận diều hâu từ Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang, Jerome Powell, đã khiến đồng đô la Mỹ tăng vọt trên toàn thị trường. Tuy nhiên, đồng đô la New Zealand không thể lấy lại những gì đã mất mặc dù có tin tức tích cực từ cuộc gặp Trump-Xi, điều này làm nổi bật động lực tiêu cực.
Từ góc độ kỹ thuật, hành động giá gần đây tiết lộ một mô hình Đầu & Vai giảm giá tiềm năng, có thể thấy trong biểu đồ 4 giờ, đây là một hình mẫu phổ biến để dự đoán sự thay đổi giao dịch. Chỉ báo sức mạnh tương đối (RSI) trong khung thời gian đã đề cập đã vượt xuống dưới mức 50, và đường trung bình động hội tụ phân kỳ đang cho thấy áp lực giảm ngày càng tăng, với các thanh màu đỏ trong biểu đồ đang tăng cao hơn.
Những người bán, tuy nhiên, sẽ phải xác nhận dưới sự hội tụ của mức hỗ trợ đường xu hướng từ mức thấp ngày 14 tháng 10 đã đề cập, hiện ở mức 1,5760, với mức thấp của thứ Năm, và đỉnh của hình H&S, ở mức 0,5750. Mục tiêu đo lường của H&S nằm ngay dưới mức thấp ngày 17 và 21 tháng 10, tại khu vực 0,5710.
Về phía tăng, các mức kháng cự nằm ở mức cao của thứ Năm là 0,5800 trước mức cao ngày 6 tháng 10, ở mức 0,5850. Một xác nhận vượt qua đây sẽ hủy bỏ cấu trúc giảm giá của các mức cao hơn thấp hơn và các mức thấp hơn thấp hơn từ mức cao giữa tháng 9, và chuyển trọng tâm đến khu vực 0,5915 (mức thấp ngày 11 tháng 9).
Đô la New Zealand (NZD), còn được gọi là NZD, là một loại tiền tệ được giao dịch phổ biến trong giới đầu tư. Giá trị của đồng tiền này được xác định rộng rãi bởi sức khỏe của nền kinh tế New Zealand và chính sách của ngân hàng trung ương nước này. Tuy nhiên, vẫn có một số đặc điểm riêng biệt cũng có thể khiến NZD biến động. Hiệu suất của nền kinh tế Trung Quốc có xu hướng tác động đến NZD vì Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của New Zealand. Tin xấu đối với nền kinh tế Trung Quốc có thể có nghĩa là ít xuất khẩu của New Zealand sang nước này hơn, ảnh hưởng đến nền kinh tế và do đó là đồng tiền của nước này. Một yếu tố khác tác động đến NZD là giá sữa vì ngành công nghiệp sữa là mặt hàng xuất khẩu chính của New Zealand. Giá sữa cao thúc đẩy thu nhập xuất khẩu, đóng góp tích cực cho nền kinh tế và do đó là cho NZD.
Ngân hàng Dự trữ New Zealand (RBNZ) đặt mục tiêu đạt được và duy trì tỷ lệ lạm phát trong khoảng từ 1% đến 3% trong trung hạn, với trọng tâm là giữ ở mức gần mức trung bình 2%. Để đạt được mục tiêu này, ngân hàng đặt ra mức lãi suất phù hợp. Khi lạm phát quá cao, RBNZ sẽ tăng lãi suất để hạ nhiệt nền kinh tế, nhưng động thái này cũng sẽ khiến lợi suất trái phiếu tăng cao hơn, làm tăng sức hấp dẫn của các nhà đầu tư muốn đầu tư vào quốc gia này và do đó thúc đẩy NZD. Ngược lại, lãi suất thấp hơn có xu hướng làm NZD yếu đi. Cái gọi là chênh lệch lãi suất, hay cách lãi suất ở New Zealand được hoặc dự kiến sẽ được so sánh với lãi suất do Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đặt ra, cũng có thể đóng vai trò quan trọng trong việc di chuyển cặp NZD/USD.
Việc công bố dữ liệu kinh tế vĩ mô tại New Zealand đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá tình hình kinh tế và có thể tác động đến định giá của Đô la New Zealand (NZD). Một nền kinh tế mạnh, dựa trên tăng trưởng kinh tế cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp và sự tự tin cao là điều tốt cho NZD. Tăng trưởng kinh tế cao thu hút đầu tư nước ngoài và có thể khuyến khích Ngân hàng Dự trữ New Zealand tăng lãi suất, nếu sức mạnh kinh tế này đi kèm với lạm phát cao. Ngược lại, nếu dữ liệu kinh tế yếu, NZD có khả năng mất giá.
Đồng đô la New Zealand (NZD) có xu hướng mạnh lên trong giai đoạn rủi ro, hoặc khi các nhà đầu tư nhận thấy rằng rủi ro thị trường nói chung là thấp và lạc quan về tăng trưởng. Điều này có xu hướng dẫn đến triển vọng thuận lợi hơn cho hàng hóa và cái gọi là 'tiền tệ hàng hóa' như đồng NZD. Ngược lại, NZD có xu hướng yếu đi vào thời điểm thị trường hỗn loạn hoặc bất ổn kinh tế vì các nhà đầu tư có xu hướng bán các tài sản có rủi ro cao hơn và chạy đến các nơi trú ẩn an toàn ổn định hơn.
,